Chương 100. Cải cách giáo dục.

Phục Hưng

Chương 100. Cải cách giáo dục.

Chương 100. Cải cách giáo dục.


Các đội thuyền Vạn Xuân cập bến không chỉ mang theo nông cụ mà còn trở quan lại, công nhân, kỹ thuật viên và càng không thể không nhắc đến đó là nhà giáo, thầy thuốc.

Thầy thuốc thì khỏi bàn rồi, thế kỷ 15, y học còn đôi phần sơ khai, chưa có nhiều loại thuốc tốt như thế kỷ 21. Một cơn cảm nhẹ cũng đủ cướp lấy mạng người, một vết sước nhỏ cũng dễ bị nhiễm trùng, uốn ván, càng đừng nói đến ti tỉ thứ bệnh nan y khác. Thầy thuốc luôn luôn thiếu, kể cả ở những trốn phồn hoa như Thăng Long hay Nam Kinh.

Ở Vạn Xuân đã sớm có trường chuyên về y, lực lượng bác sĩ hùng hậu hơn hẳn, dẫu vậy cũng không đáp ứng nổi nhu cầu. Hầu hết bác sĩ đều là lực lượng quân y, theo đại quân hành động, số bác sĩ, thầy thuốc hiện có thiếu lại càng thiếu. Để có thể gửi qua đất liền hơn 100 thầy thuốc đã là cả một sự cố gắng lớn.

Trong số hơn 100 thầy thuốc này, không ít là giảng viên của viện quân y, họ có nhiệm vụ tổ chức một trường y mới ở Thăng Long, chiêu mộ nhân tài, phát triển ngành y, để nhân dân có thêm phần đảm bảo. Để mỗi đứa trẻ lớn lên khỏe mạnh.

Ngoài thành Thăng Long, khu vực Sóc Sơn hoang vu, một khuôn viên 500ha được khai phá để xây dựng học viện y đầu tiên trên đất Việt. Đây sẽ là nơi đào tạo đội ngũ y bác sĩ tương lai, đồng thời nghiên cứu thuốc chữa bệnh, cộng thêm việc nhổ trồng quy mô lớn các loại thảo dược, dự đoán đây sẽ là một thánh địa y học lớn trên thế giới. Tân đảo cũng có một viện quân y nhưng quy mô không lớn như này, Đại Hải cũng chưa dốc hết vốn đầu tư vì trong thâm tâm hắn, đất tổ mới là nơi tốt nhất, bao khí vận dân tộc đều dồn hết về đây, Tân đảo xem ra cũng chỉ là trốn tạm bợ.

Cùng với viện quân y, đại học Bách khoa cũng được tiến hành xây dựng trên khu đất trống hướng Nam, ngay sát kinh thành. Với quỹ đất 200ha, khuôn viên đại học Bách khoa tương lai có thể nói là rất rộng lớn, ngoài những khu dạy học, công viên, hồ điều hòa, ký túc xá, thậm chí cả một vài xưởng cỡ nhỏ cũng sẽ được xây dựng trong trường để sinh viên, giáo viên có chỗ thực hành. Nơi đây sẽ giảng dạy về mọi thứ từ văn sử địa đến toán hóa lý sinh, từ triết học cho đến thần học. Đây sẽ là cái nôi nuôi dưỡng những tài năng đất Việt, những giáo sư, danh gia hàng đầu từ mọi miền Tổ quốc đều sẽ được mời đến đây thụ nghiệp, đây sẽ là ước mơ của biết bao thế hệ thanh niên, bồi dưỡng họ, dẫn đường họ khám phá thế giới rộng lớn.

Nho giáo với những lễ điều đã kìm hãm sự phát triển, dần dần bó hẹp trí tưởng tượng, sự sáng tạo của con người, khiến người ta hoài niệm về quá khứ, về thời đại hoàng kim trong quá khứ như Nghiêu, Thuấn, thậm chí còn không biết có thực sự tồn tại hay không.

May thay, lúc này, Nho giáo ở nước Việt chưa thực sự phát triển, mới là bước đầu của sự du nhập, tầng lớp vua quan thống trị tuy sử dụng một số lý luận Nho giáo nhưng chưa thực sự mở rộng chúng, Nho giáo chưa ảnh hưởng đến mọi tầng lớp nhân dân như các triều đại sau. Lúc nào người Việt còn chuộng đạo Phật, đặc biệt là thiền phái Trúc Lâm khi xưa vua Trần Nhân Tông cởi hoàng bào khoác lên tăng y.

Tư tưởng của dân Việt còn chưa bị Nho giáo cố hóa như dân Hán, quả là điều đáng mừng và là cơ hội tốt để Đại Hải cải cách giáo dục, hướng đến một nền giáo dục tiên tiến, phát triển con người một cách toàn diện, tìm tòi bí mật thế giới. Đây là cơ sở để nước Việt có thể trở lên hùng mạnh.

Dĩ nhiên Đại học không phải một ngày xây thành và đi vào hoạt động, lúc này dân Việt đa phần còn đang mù chữ, không phải dân Việt, hầu hết dân số thế giới lúc này đều đang mù chữ. Biết chữ, có văn hóa thường là đặc quyền của giới tinh hoa, tầng lớp thống trị, bất kể ở Âu hay Á đều như vậy. Nhiệm vụ cấp bách là để dân chúng biết chữ, thể mới có thể phổ cập giáo dục, mới đào tạo nhân tài hiệu quả được.

May thay, với bộ chữ Việt ngữ (tiếng Việt bây giờ) ghép vần các ký tự La tinh, rất dễ để đọc thông biết thạo, việc học chữ không còn quá khó. Nếu mà đổi sang chữ Hán hay Nôm thì quả là ác mộng, thời gian học lâu, cũng rất khảo nghiệm trí nhớ, vì đây là chữ tượng hình, phải nhớ như in từng chữ một. Hiện tại chữ Hán cũng là dạng phồn thể (chém đấy, không biết tiếng Hán thế kỷ 15 có thực sự là phồn thể không hay là một loại gì khác), khó học chứ không như chữ giản thể ở hiện đại, mà có là giản thể cũng khó khỏi bàn. Chữ Hán đã thế, chữ Nôm được người Việt sáng tạo trên cơ sở chữ Hán làm sao dễ nhai hơn….Sáng tạo một chữ viết mới thì rất khó khăn, có tiếng Việt rồi cớ sao không dùng. Ngôn ngữ chữ viết suy cho cùng là dùng để truyền bá tư tưởng. lưu dấu văn minh, không cần đặt yêu cầu quá cao cho nó, đảm bảo nó hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình là được rồi.

Vạn Xuân sẽ dùng Việt ngữ là ngôn ngữ, chữ viết chính thức. Ai thích sáng tạo hay dùng Hán – Nôm thì cứ tùy ý, nhưng các văn bản của Nhà nước, nơi công cộng sẽ phải sử dụng Việt ngữ, láo nháo thì lên phường mà trình bày. Vũ Đại Hải không tiếp. Tầng lớp sĩ phu, danh gia vọng tộc muốn phản kháng thì cứ việc, hỏi 10 vạn đại quân, hàng vạn thiết kỵ Vạn Xuân có đồng ý hay không. Cứ thử xem quân Vạn Xuân có ngại ngần ra tay với người Việt hay không. Có thể hỏi đám hàng binh họ Hồ khi xưa, họ sẽ trả lời cho.

Quân áo đen ngay từ khi khởi sự, thời gian rảnh rỗi ngoài được truyền dạy về tư tưởng thì cũng học các lớp bình dân học vụ, dạy cho những người lính trẻ biết chữ. Những người trẻ tuổi đầy nhiệt huyết này đối với cái mới tiếp thu rất nhanh, từ việc tóc tai, ăn ở đến quần áo và giờ là văn hóa. Văn hóa vẫn là văn hóa Việt, không có gì phải chống đối cả, chỉ là chữ viết thay đổi thôi, mà trước kia thì đa số họ mù chữ, nay có cơ hội được dạy học, sao có thể chối từ cho cam.

Đã thế, các lớp học chữ còn rất hay ho, không phải ngồi ngâm nga tứ thư ngũ kinh, luận ngữ, đại học như các thầy đồ ở làng. Họ học về lịch sử, về địa lý, để biết thế giới rộng lớn đến chừng nào, phía bên ngoài lũy tre làng kia phong cảnh thế giới ra sao, bên kia biển lớn có cái gì. Học lịch sử để biết các bận cha chú, tiên tổ oai hùng ra sao. Học văn, đạo đức để biết ăn nói ứng xử sao cho phải phép, văn minh. Học toán để biết tính toán, không bị gian thương lừa gạt,….muôn vàn những kiến thức diệu kỳ sẽ được dạy cho họ, chỉ cần họ muốn học, tất cả đều hoàn toàn miễn phí. Chỉ mấy tháng trời, quân áo đen trở thành một lớp học khổng lồ, những người trẻ tuổi điên cuồng hút lấy những tri thức mới như miếng bọt biển….Sau đó, hàng vạn người trẻ tuổi này sẽ ảnh hưởng đến hàng vạn gia đình người Việt, bất chi bất giác thay đổi cả một dân tộc, một đất nước.

Chưa kể đển việc các sách vở, truyện ký theo những chuyến tàu cập bến Thăng Long, lấp đầy họ bằng hải dương tri thức. Bồi bổ tâm hồn hiếu học, lòng hiếu kỳ của người Việt về thế giới bên ngoài. Phải biết thời này quá thiếu các hình thức giải trí, những kiến thức mới, những câu chuyện của người Vạn Xuân phần nào đã đáp ứng được nhu cầu này. Những kiến thức học được, những mẹo hay, luật pháp còn áp dụng được ngay vào trong đời sống, càng kích thích thêm sự ham học hỏi của nhân dân. Chính việc này khiến công cuộc cải cách giáo dục ít gặp trắc trở, chống đối hơn.

Có thể nói Đại Việt – Đại Ngu hay Vạn Xuân của hiện tại mỗi ngày gió thổi mây phun, sắc trời thay đổi. Công cuộc cải cách diễn ra mạnh trên mọi mặt trận, không ít kẻ khó chịu nhưng chỉ cần nhìn xác hàng ngàn lính Minh bị treo lên dọc đường thiên lý Bắc Nam hay các bến cảng là im re. Chưa kể gót sắt thiết kỵ Vạn Xuân không ngày nào không nghe thấy, quân áo đen càng đông như chẩy hội, hội này còn nhất mực ủng hộ Đại Hải tướng quân cùng cải cách, ai dám làm loạn gì cho cam.

Chính trong các gia tộc, những nhà địa chủ, thế hệ trẻ cũng bị quân áo đen, quân Vạn Xuân cảm nhiễm, nô nức gia nhập, họ cũng khát khao cái mới, khát khao sự đổi thay, khát khao khám phá, họ cũng muốn đạp đầu ngọn sóng, chinh phục biển rộng. Gia tộc, dòng họ không thể cản lại khát khao mãnh liệt đó được, đặc biệt khi Đại Hải tướng quân mang quân lên phương Bắc, cái khát khao đó bị đốt cháy, không tài nào dập tắt nổi. Thiên hạ đệ nhất chiến công cũng chỉ đến thế mà thôi, biết bao nhiêu năm rồi, quân Đại Việt mới viễn chinh phương Bắc, đi chuyến này, ghi danh sử sách cũng không quá. Thân nam nhi, ai mà chịu nổi.

Thế hệ trẻ về tay Đại Hải thì tương lai dân tộc cũng về tay hắn, không gì nghịch chuyển nổi. Mọi mặt đời sống từng ngày từng giờ thay đổi, những cái mới, những hình mẫu lý tưởng Đại Hải xây dựng ngày nào nay được áp dụng lên chính mảnh đất quê hương, khiến nó trở lên ngày càng tốt đẹp hơn, còn gì đánh tự hào hơn cơ chứ.

Ngoài ra, một lĩnh vực rất rất quan trọng mà Đại Hải lưu ý đó là tài chính. Lĩnh vực nguy hiểm không kém gì chiến tranh, giết người không thấy máu, ẩn dật không ai hay biết nhưng lại không đâu không có. Thời nào cũng có gian thương, thời nào cũng có người chơi, thao túng tiền tệ, chỉ khác nhau kỹ thuật, đẳng cấp ra sao thôi. Họ Hồ đổi tiền giấy do còn nhiều sai sót khiến nền tài chính nước nhà tan nát, một phần cũng hạn chế sức mạnh của họ khi đối đầu quân Minh.

Ngân hàng, tiền trang xuất hiện từ sớm với tác dụng là nơi lưu trữ tiền bạc, giúp thương nhân đi buôn bán nhẹ nhàng, an toàn hơn, không phải mang một số vàng bạc châu báu khổng lồ trong mỗi lần đi buôn. Tuy nhiên, tiền trang này phát triển ở Đại Minh là nhiều chứ ở Đại Việt còn hạn chế, gần như không có, một phần do Đại Việt bầu không khí buôn bán ở Đại Việt không quá mạnh, tiền và các thương hội chủ yếu ở trong tay thế gia, vọng tộc, đám này có quân có tướng, không mấy ai dám đánh cướp, lái buôn nhỏ lại ít tiền…thế nên tiền trang cũng không thật sự cần thiết.

Dẫu vậy, từ khi còn nghèo khó Đại Hải cũng đã thành lập ngân hàng Vạn Xuân, ngoài tác dụng làm nơi lưu trữ, gửi tiết kiệm cho dân chúng, thương nhân, còn là nơi binh lính có thể nhận lương và cũng có những khoản vay ưu đãi cho những người có ý muốn khởi nghiệp. Người hiện đại ai cũng biết ngân hàng rất quan trọng, không thể thiếu, nghiệp vụ kiếm tiền của ngân hàng cũng không chỉ là qua khoản phần trăm nhỏ nhoi từ việc cho vay hay gửi tiết kiệm. Kiếm tiền nhiều lắm, phải làm trong đó mới biết được.

Ngân hàng có muôn vàn tác dụng, từ bảo vệ nền kinh tế đến thực hiện chiến tranh tiền tệ, chiến tranh thương mại,…một vũ khí mạnh, vô hình như vậy, Đại Hải không thể không nắm trong tay.

Trong công cuộc cải cách ở đất Đại Việt, ngân hàng cũng theo chân mà đến, thành lập cơ sở ở những thành trấn quan trọng, phá thế lũng đoạn tiền bạc của địa chủ, thế tộc. Đồng thời hỗ trợ nhân dân, thúc đẩy buôn bán giao thương dễ dàng hơn. Ngoài ra còn có thể sử dụng những nguồn lực trong dân để thực hiện công cuộc cải tạo, xây dựng cơ sở vật chất….lợi quá nhiều.