Chương 49: Đạo của người Việt.
Việc tiếp theo là chữ viết thì gặp khá nhiều trở lực cho việc học tập đọc viết. Bởi vì nhu cầu của tình hình hiện tại đang cần sức lao động cho việc xây thành đắp lũy chuẩn bị phòng thủ chiến lâu dài. Do dó người dân ít co thời gian học chữ. Bên cạnh đó giáo viên cũng chỉ có 10 người mà thôi. Nhưng Nguyên Quốc không ngại… quân đội mỗi ngày ngoài luyện tập thì phải học chữ 2 tiếng đồng hồ. Đây là quân luật, ai kém tiến bộ sẽ có những hình phạt nhất định, ví dụ giặt quần áo hoặc dọn vệ sinh. Nhưng ai có tiến bộ tốt sẽ được khích lệ. Nên nhớ quân đội Đại Việt giờ đây có tới 1200 chính quy 500 dân quân người Việt và 400 thủy binh Việt gốc Hán. Tất nhiên giáo trình cho đám Việt gốc hán sẽ là riêng và được chính Cao Thích dạy dỗ tiếng việt cùng cách đọc viết cho bọn họ.
Về mặt kinh tế thì tiền tệ ra đời với tiền đồng Đại Việt. Đây chính là tiền xu với một chiếc lỗ nhỏ ở trung tâm để dễ biến thành sâu chuỗi. Giờ đây có 6 loại tiền chính đó là 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng và 50 đồng. Chúng đều được dập ép mà ra chứ không phải đúc khuôn. Với công nghệ cán thép thì người Việt cũng cán mỏng đồng dễ dàng hơn thành tấm mỏng sau đó là những khuôn tiêng bằng thép sẽ ép các tấm đồng này bởi áp lực cao để tạo thành những đồng tiền chất lượng cực tốt và đều đặn về kích thước. Những khuôn ép này là do chính tay Nguyên Quốc chế tác với độ phức tạp kinh khủng về hoa văn. Và công nghệ ép ra tiêng đồng cũng được bảo mạt hoàn toàn. Giờ đây công việc của người dân Đại Việt sẽ được nhận lương là các đồng tiêng bé xíu này.
Nhưng nếu họ muốn thì có thể cầm chúng đổi lấy bất kì thứ gì trong cửa hàng tạp hóa cảu bộ lạc. Ngay đến lụa cũng có thể đổi tại đây nếu như đủ tiền. Chính bước chuyển biến này đã làm lưu thong hàng hóa trong bộ lạc cực kì dễ dàng. Ví như trước đây muốn có một con dao đồng thì phải mang vậy liệu và chuẩn bị gạo hoặc những thứ khác mang đến lò rèn. Nhưng giờ đây thì khác chỉ cần cầm tiền đến cửa hang tạp hóa khúc dương cái gì cũng có. Tất nhiên mấy tên thợ rèn nhí gửi sản phẩm của họ vào đây để bán rồi. Có khi chúng bán tại nhà, hoặc nhận riêng những đơn đặt hàng đặc biệt, nhưng giờ đây chúng bị thu thuế rồi. Đó là luật đã gi trong trường ca vậy nên ai cũng biết mà vui vẻ chấp hành thôi. Từ hệ lụy này mà sinh ra bên cạnh cửa hàng tạp hóa của bộ lạc có một loạt cửa hàng tư nhân nhỏ ra đời bán đủ thứ mà họ chế tạo được, ví như Giáp mây đủ chủng loại, đồ đồng gia dụng, vải đay v. v…. nền kinh tế thị trường đang manh nha xuất hiện với sự cạnh tranh cả về giá cả, chủng loại và chất lượng. Ngoài ra một nét đặc sắc đó là quán rượu và quán ăn cảu một số tên người Việt gốc Hán đã được mở ra… đơn giản vì người dân đang lao động cả ngày vì hệ thống phòng thủ, không có thời gian nấu ăn nên hình thức kinh doanh này cực phát đạt chỉ trong một thời gian ngắn.
Nhưng nói đến làm ăn thì mấy cửa hàng hay quán ăn đấy chỉ là muỗi so với cửa hàng tạp hóa của "chính phủ" bộ lạc Đại Việt. Đơn giản vì nó nắm hết nguyên liệu đầu vào của các ngành sản xuất. Sắt, đồng lương thực đều từ đây mà ra. Muốn đúc đồng hả, mang tiền đến cửa hàng tạp hóa mua quặng, than. Muốn rèn sắt hả cũng được, mang tiền, giấy phép, đến mua nhiên liệu. Quán ăn, dân chúng đều mua lương thực tại đây về chế biến... Nên cuối cùng tiền đồng đi một vòng thì phần lớn lại về tay "chính phủ" mà thôi.
Giờ đây công việc quan trọng nhất của người dân Đại Việt là xây thành trì và bến cảng. Có thêm sức lao động nhiệt tình của tù binh, cùng 800 binh sĩ Việt gốc Hán thì công việc thực sự tiến triển rất mau lẹ.
Tại sao nói hơn 400 tên tù binh Đông Ngô lại lao động Hăng say. Đơn giản vì chúng đã nhận được thông báo từ thượng tầng bộ lạc Đại Việt. " Các ngươi mang đao mà đến, liếm máu dân Việt ta, đáng lẽ ra tội chết khó tha. Nhưng niệm tình các ngươi cũng chỉ là " dân đen" bị lũ quan lại ép bức mà bỏ nhà bỏ cửa đi lên chiến trường giết chóc. Thử hỏi không có lũ quan lại, lũ thống trị hiếu chiến ấy thì giờ đây các ngươi chắc hẳn đang vui vầy cùng gia đình, vợ con, mẹ già mà sống hạnh phúc rồi."
Chỉ nghe đến đoạn này thôi thì các binh sĩ đã không ít người khóc rống lên rồi. Khóc đến tâm can phế liệt, bởi những lời nói này hòa toàn đúng tâm trạng của họ. Những binh lính này hoàn toàn là lính thường, sĩ quan đã được nhốt riêng biệt rồi. Có sĩ quan tại đây rất khó lung lạc được binh lính. Nhưng sự việc chưa hết vì còn đoạn sau quan trọng hơn. " Các ngươi về tình thì đáng thương, nhưng về lý thì đáng tội vì bàn tay nhuốm máu người Việt. Trời cao có đức hiếu sinh, người Việt lại bao dung. Vậy nên tội chết có thể tha, nhưng tội sống thì phải chịu. Phạt các ngươi lao động khổ sai 5 năm, trong năm năm này ai có thể học tốt tiếng việt, văn hóa việt thì thời gian khổ sai giảm xuống 2 năm. Sau mãn tù thì ta thả các ngươi, muốn đi hay ở tùy ý. Nhưng nếu đã đi mà còn đao kiếm một lần nữa quay lại Đại Việt thì đó là tử ký của các ngươi."
Đây là một pháp lệnh nhân đạo đến kì cục, nhưng mọi người không biết ý của Nguyên Quốc. Chỉ cần các tù binh Đông Ngô này học tiếng Việt học văn hóa Việt sau đó chứng kiến cuộc sống của người Việt thì chắc chắn họ sẽ có phân nửa ở lại. Phân nửa trở về cong ngu hiểm hơn vì họ rất có thể không chịu nổi hà khắc cuộc sống tại Đông Ngô mà mò về Giao Châu. Mà có thể còn thuyết phục cả nhóm lớn dân Hán nữa. Nguyên Quốc đã nói rồi, bất kể các ngươi đến Giao Châu với mục đích gì, do thám, gián điệp... Chỉ cần ngươi ở đây ngươi sẽ bị đồng hóa thành người Việt.
Còn nguyên nhân thứ hai mà các tù binh này trở nên hăng say lao động đó là họ được trả lương. Tù binh lao động khổ sai được trả lương là một điều quá vô lý, nhưng ở Đại Việt là thật. Mỗi ngày các tù binh này đều được giao một lượng công việc nhất định. Nếu làm vượt qua mức này sẽ được tính lương như bao người khác. Làm thêm được bao nhiêu thì trả bấy nhiêu tiền. Tiền có thể mua đồ ăn, vải đay và một số vật dụng được phép. Một tuần được vào thành Khúc dương tiêu tiền một lần. Không tiêu tiền mà tích góp lại cũng được, vì những kẻ tích góp thì 100% là muốn ở lại Đại Việt ví tiền này không tiêu được, hay nói là chưa tiêu được ở Đông Ngô.
Nguyên Quốc đang xây dựng cho người Việt một đạo thống chính thức đó chính là " Nhân Đạo". Yêu hòa bình, tự do. Bình đẳng, bác ái nhưng tự cường. Không gây hấn chiến tranh nhưng không ngại chiến đấu để bảo vệ những gì thuộc về họ, bảo vệ những giá trị đích thực của người Việt. Từ đó khiến cho Việt tộc không bao giờ phải chịu cảnh tủi hổ cúi đầu trước kẻ địch. Không phải chịu cảnh tủi hổ mất chủ quyền. Có thể hiên ngang mà bắt tay tất cả các quốc gia khác mà không phải kiểu khúm núm cúi đầu bắt tay nịnh nọt.