Chương 34: Vô trung sinh hữu
- Các ngươi biết đây là gì không?
- Dạ thưa đây là một củ dại mọc trong rừng, ăn khá ngạt nhưng đỡ đói. Nhưng thứ này không có hạt nên không hiểu nên reo trồng ra sao, cuối cùng là lúc nào mất đói quá thì vào rừng nhặt ăn ạ….
Nguyên Quốc lắc đầu, đây chính là một loại khoai lang dại. Trong sửa sách có ghi Khoai lang xuất xứ là từ Nam Mỹ và được truyền vào Việt Nam vào thế kỉ 16 từ Phúc Kiến Trung quốc. Nhưng Nguyên Quốc cũng nhớ lại có một báo cáo khoa học mang tính xác thực rất cao đó là khoai lang và sắn xuất xứ từ Đông Nam Á (Bài nghiên cứu này có thật tối qua ta động để lấy tư liệu cho chương này mà rồi giờ mất tiệt không tìm ra được, để tối về nhà tìm lại), sau đó không hiểu bằng đường biển mà chi chuyển một dọc các hải đảo rồi được dân Nam Mĩ phát triển. Trong khi đó tạo Đông Nam Á với sự phát triển của lúa nước đã làm mai một giống cây thần kì này, người Đông Nam Á không hề đào tạo giống cây này và một lần nữa vào thế kỉ 16 những thứ như khoai Sắn lại trở về với đất mẹ Đông Nam Á của nó
- Các ngươi không hiểu, cái này Khoai Lang, trồng bằng cách để củ này mầm, hoặc bằng dây khoai… rất dễ trồng… mùa đông cũng có thể sống được… đất đồi cũng có thể trồng bình thường…. không hề ảnh hưởng đến trồng lúa. Theo lệnh của ta 1000 người bủa vào rừng tìm tất cả các loại cây củ như vậy và gần giống như thế này về đây cho ta….
Nguyên Quốc tìm ra một hướng đi mới cho Lương thực, đó chính là những giống củ chịu lạnh vào mùa đông và không đòi hỏi quá nhiều nước. Vì người dân Âu _Lạc lúc này chỉ trồng một vụ lúa Xuân - Hè mà thôi, những tháng còn lại vào Thu Đông là nhân lực nhàn rỗi, nếu có thêm các loại như khoai, sắn, khoai mỡ, kể cả là khoai Môn (Củ ráy) cũng tốt. Chúng sẽ tạo nên một lượng lương thực cực rồi rào cho Đại Việt bộ lạc. Là tiền đề để hắn tranh bá thiên hạ.
2356 người dân và 723 binh lính đó là con số thống kê chính xác lúc này của Nguyên Quốc, từ hơn 2 ngàn dân đầu nhạp vào Đại Việt bộ tộc hắn chỉ tuyển ra gần 200 lính mà thôi. Phải biết cân bằng giữa quân đội và sản xuất. Không thể vơ cả nắm vào thành quân đội được. Thế nhưng hơn 500 trai tráng thuộc dân Lạc_ Âu hắn vẫn tiến hành trang bị vũ khí bằng đồng và huấn luyện qua về mặt quân sự. Để làm được điều này thì 30 lính thuộc hậu cần doanh phải tách ra và dẫn theo 200 dân cùng 100 nô lệ Dương Việt tộc quay lại khu quặng đồng mỏ để khai thác và chế tác các vũ khí và công cụ bằng Đồng. Nguyên Quốc không hề muốn tấn công Khúc Dương ngay lúc này, vì lương thực từ khu mỏ Muối đã được vận chuyển đến quân doanh, và 200 dân ở khu mỏ muối cũng đã tập trung lại tại khu đồng bằng lân cận Khúc Dương mà sinh hoạt. Lương thực là đủ để mọi người cầm cự đến 2 tuần nữa. Mỗi ngày trôi qua thì sức éo đến với quân thủ thành càng lớn vì Nguyên Quốc đang thực hiện kế " Vô trung sinh hữu" (Không có mà thành có) và đang giảng giải ảo diệu trong đó cho các sĩ quan.
Thẻ tre mà Nguyên Quốc gửi cho Lục Kiên trong thành Khúc Dương có đoạn " Chúng ta 3 ngàn quân chỉ là tiên phong, trong 2 tuần tới quân số sẽ là 2 vạn, nếu ngươi không đầu hàng đến lúc phá thành thì sẽ là kẻ bị trảm đầu tiên, nếu khôn ngoan đầu hàng lúc này ta thả cho một chiếc thuyền mà về Đông Ngô ". Và để chứng thực điều này hàng đêm Nguyên Quốc đều thực hiện một việc đó là quân sĩ cũng như dân thướng mỗi người cầm một chiếc cây dài trên đó gắn 3 đến 4 ngọn đuốc âm thầm ra khỏi trai bằng cửa Nam sai đó nhiễu một vòng rồi đốt đuốc lên mà đi về trại. Việc này tạo nên một giả tượng dường như có cả mấy ngàn quân tăng binh vậy. Buổi sang thì dân chúng như hồ hởi xay dựng mở rộng lều trại cho quân tăng viện. Cho đến giờ thì lều trại đã mở rộng cực to rồi, tất nhiên bên trong trống rỗng thôi. Chỉ có lính gác ở cổng là đầy đủ và nghiêm ngặt. Cộng thêm thám báo hoạt động hết mức để không cho thám báo quân địch đến gần doanh và phát hiện thì đây là một đòn tâm lý cực mạnh đánh vào những kẻ trong thành.
Hết tuần thứ hai thì số máy bắn đá Catapult đã hoàn thành là 4 chiếc. Mặc dì nhiều người công tác nhưng tốc độ không thể nhanh được vì thợ chính chỉ có 70 người thuộc doanh hậu cần binh. Trong khi đó những người này còn phải chịu trách nhiệm chế tạo vũ khí mới cho nhóm binh sĩ mới ra nhập quân đội. Quan trọng là họ phải luyện một loại đao mới cho kị binh, vì Katana xem ra không thích hợp lắm với tác chiến trên lưng Trâu. Cái mà Nguyên Quốc chọn đó là lưỡi đao cong dùng một tay của kị binh Mông cổ. Với loại đao này thì việc chém đối phương trong khi tốc độ cao rất thuận tiện. Vì chém theo đường cong, cộng thêm sức phi nhanh của Kị Ngưu nên lực chém cực mạnh mà không làm cổ tay tổn thương. Đây chính là điểm mạnh của đao cong Mông Cổ vũ khí đã gây nên kinh hoàng cho những người sống trên 24 triệu Km vuông chiếm 16% diện tích thế giới. Tất nhiên bên cạnh đó còn có cung tên và kị mã, nhưng không thể phủ nhận sự cường đại của đao cong Mông cổ khi chúng kết hợp cùng kị binh.
Số trâu bây giờ của Nguyên Quốc là 63 con vì những người dân Lạc Việt khi chạy nạn có đem theo trâu mà chạy vào rừng, tất nhiên đây không phải tất cả số trâu cảu họ. Số trâu nhiều nhất là bị quân Dương Việt bắt được mà đang nuôi nhốt trong Thành Khúc Dương. Nguyên Quốc quyết định tổ kiến 50 kị Trâu trước, số còn lại để phục vụ sản suất nông nghiệp, nếu trưng dụng hết trâu thì những người dân lao động sẽ vất vả hơn và năng suất không cao.
Rồi chuyên gì đến cũng sẽ phải đến mà thôi, Nguyên Quốc sau khi tiến hành bước dọa nạt đầu tiên thì sẽ là bước thứ hai dọa nạt. Ngày hôm nay tổng cộng hơn 700 lính chính quy đi trước và 500 diễn viên quần chúng vác giáo dài mũi đồng theo sau trùng điệp tiến về cửa Nam Thành Khúc Dương. Nguyên Quốc quyết phải ép bọn Đông Ngô đầu hàng nhanh nhất có thể, vì Khoai lang, Khoai Mỡ và sắn đã tìm ra khá nhiều các dây thân cây đang được ươm trồng cả rồi. Giờ đã là cuối hè gần qua thu, chính là thời điểm thích hợp đẻ gieo trồng. Hắn muốn nhanh nhất chiếm Khúc Dương để tạo nên sự ổn định về mặt chính trị giúp cho bà con có điều kiện canh tác vụ Thu Đông này.
Dẫn đầu đoàn quân dĩ nhiên là 50 kị Ngưu và thớt Voi chiến được bọc trong giáp mây kín kẽ có phủ da đàng hoàng. Ngồi trên đó là những kị sĩ với mũ đồng chỉ nhìn nhìn thấy mắt mà thôi, họ đang lăm lăm trong tay những thanh trường thương sang bóng. Để quảng cáo đội hình thì nhóm này đi đầu là hợp lý nhất. 250 trường thương binh chính qui cộng thêm 500 diễn viên trường thương đồng xếp cạnh nhau tạo nên một cung cảnh trường thương như rừng không sai, khung cảnh khá hoành tráng. Đi theo hai bên là 100 đao thuẫn thủ cùng 200 cung thủ binh hàng ngũ nghiêm ngặt mà tiến, phía xa xa có bụi bay mù mịt đó là hình ảnh của cả vạn đạn quân xuất kích.
Binh sĩ trên thành như kiến bò chảo lửa. Bất kì ai nhìn thấy hoàn cảnh tuyệt vọng này cũng muốn bỏ thành mà chạy lấy người. Từ mấy hôm trước đã có lính Dương Việt lác đác theo cửa bắc mà dào binh. Chỉ cần vượt qua 300km là họ trở về quê mẹ rồi, khả năng sống sót cao hơn là ở lại ôm cái thành này chờ chết. Lính thám báo Đại Việt biết hết nhưng họ mắt nhắm mắt mở cho qua, đây là lệnh của Chủ thượng rồi. Tình hình này như bệnh dịch mà lan tràn toàn quân Dương Việt trong thành Khúc Dương, nói cho cùng họ từ rất nhiều bộ lạc Dương Việt mà ghép lại với nhau, thế nen nếu gặp thuận lợi thì rất tốt, nhưng nếu gặp khó khăn thì dễ mỗi người mỗi ý. Lính Dương việt có thể theo đường bộ mà ôm may mắn trốn về nhà. Nhưng lính và sĩ quan Đông Ngô thì chịu rồi, Lục Kiên biết chuyện Dương Việt quân đào ngũ nhưng hắn không dám làm căng. Lính Đông Ngô thân quân chính thức của hắn chỉ có 100. Nếu làm căng có binh biến thì người đầu tiên chết sẽ là hắn đấy. Giờ phú này Lục Kiên đang tái mét mặt đứng trên lâu thành mà nhìn 4 cỗ máy bắn đá phía xa. Hắn chả lạ gì máy bắn đá, trận Xích bích cũng là dùng máy bắn đá mà bắn dầu trẩu lên thuyền quân Tào Ngụy đây thôi. Nhưng đó chỉ là những cỗ máy bắn đá sơ khai. Chỉ nhìn thoáng qua sự phức tạp không thể lí giải của 4 cỗ máy to lớn này thì Lục Kiên cũng biết chúng sẽ cường đại hơn cả máy bắn đá Đông Ngô. Tòa thành đất cao 4m này chịu được mấy hồi công kích thì hắn không dám chắc.
(bổ xung cờ Đại Việt lúc này nhé: https://www.facebook.com/photo.php?fbid=115020175975494&set=a.104937783650400.1073741827.100024025355502&type=3&theater)