Chương 72: Xuất Chiến

Tam Quốc Việt Tộc Tham Chiến

Chương 72: Xuất Chiến

Thủy quân Đại Việt tại Thu Khuê đảo nổi được mệnh danh trung đoàn thủy binh Giao Long với thành phần hỗn tạp giữa Việt và Hán. Đội ngũ này trang bị chủ yếu là các vũ kí từ sắt non thu được khi công phá trại thủy quân Đông ngô. Áp lực về chế tạo binh khí lên cục quân khí là rất lơn vào lúc này, vì họ cong đang bận trang bị 1300 bộ cho Trung đoàn thủy binh Cự Kình chuẩn bị tấn công Ninh Hải. Việc mở rộng Cục quân khí đến 500 người đã là vượt qua hạn mức cho phép rồi bởi Nguyên Quốc cũng cần lao động cho vụ mùa sắp tới đây. Chính việc bức xúc về nhân lực phân bổ cả về xây dựng lẫn sản xuất ngày mùa khiến cho kế hoạch 1 tháng tấn công Ninh Hải chậm thành 2 tháng. Trang bị không đủ thì không thể đem 1300 thủy quân mới toe này đi chịu chết được.

Trung đoàn thủy binh Cự Kình có chỉ có 200 lính lính Sơn Việt bị bắt trước làm phu trèo thuyền, do đó số lượng còng thiếu thì các thủy binh này phải tự thay nhau mà thực hiện. Số thuyền của trung đoàn này là 7 chiếc, 7 chiếc tiếp theo là của thủy quân Sông Lục Hải, 8 chiếc đã được điều đi cho thủy quân Thu Khuê đảo nổi. Tổng số 22 phúc thuyền dài 25m của Đông Ngô đã được Nguyên Quốc sử dụng hoàn toàn cho 3 cứ điểm thủy quân của Đại Việt. 4 chiếc Lậu thuyền vẫn không được sử dụng mà để đắp chiếu ngoài khơi Đồng Muối.

1300 thủy quân thuộc Trung đoàn thủy binh Cự Kình nếu xét cho cùng thì chỉ thuộc vào hạng thủy quân trong các tốp thủy quân Đại Việt mà thôi. Hạng nhất dĩ nhiên là các thủy binh việt gốc hán đang đóng quân tại Thu Khuê đảo nổi với tên Giao Long. Hạng nhì là thủy binh do Lê Loi chỉ huy có tên Lục Hải đóng tại căn cứ Lục Hải. Hạm đội này với một nửa là thủy binh gốc hán mới cứu về từ quân cảng Nam Triệu một nửa là binh sĩ Việt Gốc đã có thời gian quen thuộc với huấn luyện thủy chiến 4 tháng vậy nên sức chiến đấu rất đáng kể. Nhưng nhóm thủy binh Cự Kình là mới nhất, họ mới chỉ tham gia huấn luyện được 2 tháng mà thôi, các sĩ quan chỉ huy đều phải lấy từ bên thủy quân Lục Hải bù đắp vào. Cũng may mà quá trình huấn luyện kéo dài đến 2 tháng nên nhóm quân này đã không còn quá bỡ ngỡ trước việc di chuyển trên biển và tiến hành tổ chức tấn công bằng các loại vũ khí mới của Đại Việt.

Một điều nghịch lý đó là Trung đoàn thủy binh Cự Kình lại được lãnh nhiệm vụ viễn trinh đầu tiên mà không phải hai trung đoàn thủy binh giàu kinh nghiệm hơn. Điều này cũng dễ lý giải vì 4 ngàn quân Sơn Việt bên bờ đông Lục Hải gây nên áp lực cực lớn, chỉ có trung đoàng thủy Binh Lục Hải mới có khả năng phong tỏa tốt nhất đám quân thiện chiến này. Còn về Giao Long trung đoàn thì nhiệm vụ còn nặng nề hơn khi họ bao hết cả hai thành trì Kê Từ và Bắc Đái. Nếu xét như vậy thì nhiệm vụ tấn công Ninh Hải coi như là nhẹ nhàng nhất rồi, tân binh như Trung đoàn thủy binh Cự Kình đi viễn chinh là chính xác.

Ngày 4 tháng 2 năm 230 Bảy chiến thuyền treo cờ chim Lạc cộng thêm lá cờ hình cá voi xuất bến Lục Hải xuôi dòng ra cửa biển. Vì đảm bảo vạn vô thất nhất thì Nguyên Quốc chính là chủ soái trong việc xuất binh lần này. Thành Khúc Dương đã đi vào một guồng máy vận hành khá khoa học, việc Nguyên Quốc không có mặt nơi này thực sự không ảnh hưởng nhiều. Quan trọng là Khúc Dương trong thời gian ngắn không thể gặp bất kì nguy cơ nào kể cả từ các thành trì đồng Bằng Bắc bộ hay từ 4 ngàn quân Sơn Việt bên bờ đông Lục Hải.

Một điểm đặc biệt nữa chính là bảy chiếc chiến thuyền thuộc Trung đoàn thủy binh Cự Kình được trang bị khủng bố nhất Đại Việt với toàn bộ công nghệ tốt nhất đều tập trung ưu tiên vào chúng. Đầu tiên đó chính là ống nhòm. Trên mỗi chiến thuyền đều có một ống nhòm lớn phía trên bục cao của cột buồm dành cho hoa tiêu quan sát. Tiếp theo đó là ống nhòm của sĩ quan chỉ huy thuyền. Việc truyền thông tin trên thuyền được hệ thống hóa bởi các ống đồng nối từ lâu các của chỉ huy hên cột buồm hay xuống khoang trèo. Thậm chí có các ống đồng chạy dọc thân thuyền để thông báo mệnh lệnh cho các nỏ thủ Ballista. Với hệ thống này thì thông tin trên thuyền luôn được đảm bảo nhanh và chính xác hơn rất nhiều lần truyền tin bằng miệng hoặc bằng người chạy đi chạy lại. Hệ thống truyền tin giữa các thuyền thì Nguyên Quốc đã hệ thống cờ hiệu phức tạp sẽ đào tạo riêng cho nhóm các hoa tiêu trên cột buồm. Còn trong đêm tối thì việc truyền tin này lại trở nên đơn giản hơn với hệ thống hò đốt gồm năm cửa đóng mở theo các tầng suất khác nhau để tạo nên thông tin truyền đạt.

Những hệ thống truyền tin trên không thể thực hiện một cách chuẩn xác nếu không có ống nhòm trang bị. Nói đến ống nhòm với mắt thấu kính màu xanh, cộng thêm hơi có gợn sóng làm cho chất lượng hình ảnh quả thật là khá kém, nhất là những chiếc ống nhòm bé của sĩ quan chỉ huy. Nhưng kể cả như vậy thì đây cũng là một tiến bộ vượt xa thời đại này. Nó mang lại ưu thế quá lớn cho thủy quân Đại Việt trong việc tác chiến cũng như phát hiện địch nhân.

Đêm ngày 5 tháng 2, tòa thành ấp Nin Hải đang ngập chìm trong bóng tối. Chỉ có vài ánh đuốc leo lét bên tường thành đất thấp lè chừng 2,5m mà thôi. Tòa thành ấp này quả thật là khá bé với chiều dài mỗi cạnh chỉ là 500m mà thôi. Lúc này đây một đám binh lính đang dần tiếp cận khu thành trì này, từ sáng nay Nguyên Quốc và hạm đội đã có mặt tại khu vực vịnh biển Ninh Hải (Móng cái ngày nay) nhưng tất cả chiến thuyền đều neo đậu ngoài khơi xa mà cho thuyền bé tiến nhập điều tra tình hình. Các thám báo quân Đại Việt dùng thuyền nhỏ đi ven theo cây cối của các rừng cây ngập mặn mà tiến vào Sông Ka Long một con sông chảy qua vùng đất Ninh Hải. Rất may mắn là tại đây nhóm thám báo bắt gặp hai cậu bé người Âu Việt, chúng chính là người dân sống xung quanh thành ấp Ninh Hải nên hiểu rất rõ về nơi này. Cha đứa trẻ này đã chết trong cuộc tiến quân đường bộ lần thứ nhất của quân Đông Ngô. Mẹ chúng thì bị bắt vào thành phục vụ binh sĩ đóng tại đây, thật ra thì không cần nói rõ cũng biết mẹ của hai đứa bé này đang chịu cảnh đối xử như thế nào. Cũng khá ngạc nhiên là hai đứa bé này có thể sống sót qua 6 tháng thời gian quân Ngô chiếm đóng Giao Châu miền bắc.

Thì ra hai đứa bé này một 12 tuổi một 8 tuổi cả ngày lang thang ngoài đồng ruộng bỏ hoang mà bắt rắn, ếch nhái cùng một số động vật như gà rừng để lót bụng…. Cua cá chúng cũng bắt không ít để tồn tại, may nắn nhất đó là chúng không bị cá Sấu xơi tái. Ban ngày tiếp cận thành Ninh Hải để thám thính là không thể nhưng với ống nhòm nhỏ được trang bị thì không cần thiết phải tiếp cận thành trì như xưa. Thông qua dẫn đường của hai đứa bé này thì các thám báo rất nhanh tìm thấy vị trí một ngọn núi nhỏ thuận tiện cho việc quan sát dành Ninh Hải phía dưới.

Thông qua loại dụng cụ " thiên lý nhãn" này, các thám báo của quân Đại Việt đã nắm rõ tình hình trong thành Ninh Hải một cách dễ dàng. Quả thật trong thành vận chuyển ra vào rất nhiều xe chứa các bao tải nhìn có vẻ như là lương thực vậy. Ngoài ra nơi này còn có tới 500 thanh niên trai tráng Lạc Việt đang làm phu khuân vác và vận chuyển. Số lính canh phòng tại tòa thành này chỉ có vào khoảng 200 người mà thôi. Chính vì nguyên nhân như vậy Nguyên Quốc quyết định ghe theo ý kiến của các sĩ quan như Hà Thương, Hà Thuẫn và Lý Nguyên Phúc (là một người hán được Nguyên Quốc ban tên họ) đó là cho thuyền Chiến ban đêm vào tới cửa biển sông Ka long sau đó vận chuyển lính bằng thuyền nhỏ rồi tập trung đánh vào thành Ninh Hải lúc nửa đêm. Mục đích của họ là đốt cháy lương thực và rút lui nên trang bị khá nhẹ nhàng chủ yếu là mang theo dầu hỏa mà thôi.