Chương 185: Triển khai binh lực
Nguyên Quốc rất trú trọng phòng thủ bờ biển lúc này nên hắn quyết định xây dựng thêm cảng biển tại Mao wei Sea.. Mà nơi này hắn đặt tên là Bắc Hải …. thật ra địa danh Bắc Hải là một nơi khác, thế nhưng hắn thích đặt tên như vậy thì bố thằng nào làm gì được hắn, tại đây lời nói của Nguyên Quốc là thánh chỉ. Thật ra công việc xây dựng cảng Hợp Phố và hệ thống phòng ngự Vịnh Hợp Phố tiến triển cực nhanh.
Số là hơn hai vạn dân Bách Việt mà chủ yếu là Âu -Lạc chiếm đa số tạo Hợp phố chỉ có 15 ngàn người đồng ý di dân mà thôi, còn lại 6 ngàn thanh niên, man nhân trưởng thành sống chết đòi ở lại tham gia quân ngũ… Nguyên Quốc cũng đành chịu mà thôi… tỉ lệ quân và dân của Đại Việt đang mất cân đối nghiêm trọng nhưng Nguyên Quốc không thể làm khác, 6 ngàn tân binh này cũng là một lực lượng rất đáng kể trong xây dựng cũng như canh tác các mảnh ruộng màu mỡ tại Hợp Phố. Vậy nên Nguyên Quốc quyết định giữ lại họ để tiến hành huấn luyện sơ bộ và tham gia hoạt động xây dựng cơ sở nơi đây…
Các chiến thuyền trở người dân di cư về Ninh Hải thì đồng thời cũng chở binh lính và các loại vật tư quay trở về Hợp Phố… Các thiết bị như cưa thép, búa máy tháo rời, than đá v.v… được vận chuyển liên tục giữa hai bên Ninh Hải và Hợp Phố. Với tốc độ chóng mặt chỉ trong một tuần thời gian thì Hợp Phố cảng đã tràn ngập binh lính Đại Việt tổng số quân mà Đại Việt đổ vào Hợp Phố giờ đây đã tăng lên đến 21 ngàn người. Trong đó có 3 ngàn bộ binh tinh nhuệ đặc chủng theo lối xây dựng của binh đoàn Legion do chủ tướng Hà Thương cầm đầu, phó tướng gồm Antonius Commodus, Gaius Antony và Huneric … đội quân này bao gồm 200 lính Đại Việt và gần ngàn lính hợp chủng quốc tạo thành nhiệm vụ của họ là xây dựng phòng tuyến tại con sông nhỏ có tên Nam Liêu vắt qua địa phận Uất Lâm và Hợp Phố. Tiếp theo đó là 3 ngàn bộ binh ưu tú do Lý Đại Hổ chỉ huy tại phòng tuyến Ka Long giờ chuyển đến thành Hợp Phố tại thành thế ỉ dốc tương hỗ cùng quân của Hà Thương tại Nam Liêu cứ điểm… 5 ngàn thủy quân do Nguyên Quốc chỉ huy thì có 3,5 ngàn quân sử dụng thuyền đáy bằng đóng quân tại Hợp Phố cảng còn 1,5 ngàn quân trên thuyền đáy nhọn long cốt 15m dài thì đóng quân tại cảng Bắc Hải biển đang xây dựng. Mà đội ngũ dân quân đông đảo trên 1 vạn người thì phân tán các nơi hỗ trợ quân chính quy cùng là lực lượng xây dựng chính của khu vực quân sự này, trong đó có 4 ngàn dân quân điều động từ Khúc Dương thành. Đây là lực lượng dân quân liên tục tập trận và cọ sát tại Ka Long nên chất lượng khá cao, có thể coi là lão binh nếu được trang bị đầy đủ. 6 ngàn tân binh dân quân là người bản địa Hợp Phố thích hợp cho việc canh tác xây dựng và thám báo vì họ thong thuộc địa hình nơi đây… Ngoài ra còn kể đến lực lượng 2000 lính Hán tù binh khổ sai mà quân Đại Việt bắt được, vốn dĩ là 3000 nhưng Abdukrahman chọn ra 1000 cường tráng người để bổ xung vào đội chèo thuyền cho hắn, lính nô lệ đã bị xung quân mất rồi.
Việc triển khai bố trí của quân Đại Việt không thể không nói là rất nhanh và chuẩn xác, đây chính là một thành công cực lớn của Nguyên Quốc khi đầu tư rất nhiều vào việc đào tạo các cấp sĩ quan của Đại Việt. Họ đào tạo theo cách truyền tay hình kim tự tháp, chính là tướng lĩnh cấp cao truyền dạy cho sĩ quan thấp hơn, cứ vậy mà quân đội Đại Việt là một bộ máy khổng lồ vừa chiến đấu vừa học tập không bao giờ ngơi nghỉ. Tất nhiên hình thức này cũng có tệ đoan chính là sự đồng bộ không cao, nếu mộ cánh quân có chủ tướng với kiến thức tốt thì vô hình chung mọi sĩ quan trong đó đều được hưởng lộc và ngược lại. Dù vẫn biết như vậy nhưng hình thức đào tạo tập trung Nguyên Quốc vẫn chưa thể thực hiện được trong giai đoạn hiện tại. Đại Việt vẫn chưa thực sự có một khoảng thời gian yên ổn kéo dài… Nhưng kể cả là như vậy, với phong trào dạy và học lên cao nhue hiện nay thì chất lượng nhận thức của quân Đại Việt đang dần dần dần lấn lướt quân Hán ở tầm trung và thấp… nói vậy vì Đại Việt vẫn chưa có các nhân vật kiệt xuất như Khổng Minh, Khương Duy, Lục Tốn, hay Tư Mã Ý… thế nhưng nói về nhận thức của binh sĩ thì lính Đại Việt mạnh hơn nhiều lính Hán nói chung. Vì trên đất Hán chả có tên sĩ quan nào rỗi hơi đi giảng học thức với lính quèn cả. Trong quân Hán thì số binh sĩ biết viết tên bản thân còn hiếm đấy, nhưng quân Đại Việt sau 2 năm vất vả phổ cập thì thằng nào cũng đọc thông viết thạo, tất nhiên văn chương chỉ là kiểu nói gì hàng ngày thì viết như vậy thôi.. thế nhưng trình độ học thức như vậy mà vứt vào môi trường Á Đông thì quá là vượt trội. Các biệt còn có những tên biết cả chữ Latin lẫn chữ Đại Việt Âu-Lạc… quả thật là bất khả tư nghị.
Việc xây dựng vẫn cứ tiến hành, các pháo đài bờ biển được dựng lên san sát kết cấu vẫn là đóng cọc gỗ, trát đất trộn rơm rạ hay tro trấu… tất nhiên cấu trúc đất này không mấy vững bền nhưng có một ưu điểm đó là xây dựng cực nhanh… Quan trọng là với sáng tạo lưỡi cưa thép của Nguyên Quốc thì việc chặt gỗ trở nên rất thuận tiện… những cây gỗ to được kéo khỏi rừng bởi sức voi và trâu sau đó dùng búa máy đóng thành dãy cọc khung cho các chòi canh. Nói là chòi canh nhưng với quy mô này có thể nói là pháo đài nhỏ thì đúng hơn… Chính vì khung xương bằng các cọc gỗ khổng lồ mà độ bền chắc của các pháo đài nhỏ này không cần phải bàn cãi… Tất nhiên có xi măng thì tốt thế nhưng Nguyên Quốc không nghĩ đế chuyện này… nói thì dễ làm thì khó việc tạo ra xi măng là bất khả thi với Nguyên Quốc.
Nhưng vẫn có một con đường… người Hy Lạp,La Mã có kiểu xi măng trộn bằng bụi núi lửa rất bền chắc, Nguyên Quốc đã đánh chủ ý lên vật liệu này… Abdukrahman đã trên đường về Mazun rồi, Nguyên Quốc dặn hắn ở lại Bắc Đái một thời gian để chờ các chiến thuyền to lớn kiểu mới hoàn thành sau đó mới tiến hành một chuuyến đi kế tiếp. Ngoài Nô lệ chiến binh, nữ nô để cải tạo nòi giống thì Nguyên Quốc đặc biệt chú ý công tượng La Mã, Hi Lạp. Mệnh lệnh đưa ra là mua cũng được, cướp cũng được bắt cóc cũng xong phải mang đủ 1000 tên thợ đá và thợ xi măng về đây. Trong bức chiếu chỉ đưa cho Abdukrahman mang về Bắc Đái thì Nguyên Quốc đã dặn Hà Công Tùng điêu động tất cả lụa, gấm, đồ thủ công mĩ nghệ, vàng bạc trong kho cho Abdukrahman tạo điều kiện cao nhất để hắn đổi nhiều nhất nô lệ về cho Đại Việt. Đây là bước đập nồi dìm thuyền của Nguyên Quốc rồi đấy…
Mà thật ra thì lúc này Đại Việt cũng không hề cần vàng bạc làm gì, có thì họ cũng buôn bán với ai bây giờ? chỉ cần quan tâm lương thực, Sắt, đồng, than đá mà thôi… Khi nào hòa bình lập lại thì lúc đó mới có thể tính chuyện làm giàu cho được.
Nói về công tác tại Hợp Phố thì có một chuyện phải nói đến, đó là trang bị cho quân đội. 6000 tân binh không hề có vũ khí, Nguyên Quốc đành phải cho họ dùng vũ khí của người Hán thu được tạo Hợp Phố. gần 1000 binh sĩ nô lệ cũng không có vũ khí, áo giáp thuận tay. Vũ khí thì có thể chế tạo tại chỗ vì 500 thợ sắt thuộc cục quân khí đã có mặt tại Hợp Phố và đang xây dựng lò cao tại Hợp Phố cảng, rất nhanh thôi các vũ khí mới sẽ ra đời. Nhưng áo giáo thì lại là một vấn đề phức tạp… Vì nhà máy chế tạo áo giáp mà cả một dây truyền phức tạo đến tên răng được xây dựng tại Chi Lăng, thứ này không thể di chuyển nổi. Vì vậy số đo kích thước cơ thể quân sĩ nô lệ được chuyển về Chi Lăng để chế tạo sau đó mới điều ra chiến trường… Quá trình này rất tốn thời gian, chính vì vậy những người lính to cao phương tây tạm thời đeo yếm trước ngực vậy.
Chú thích bản đồ Hợp Phố:
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=164502561027255&set=a.104937783650400.1073741827.100024025355502&type=3&theater