Chương 126: Hồn Về Cố Hương (XI)

Mưu Ngay Kế Thẳng

Chương 126: Hồn Về Cố Hương (XI)

Chương 126: Hồn Về Cố Hương (XI)


***
Tôi rất ngạc nhiên khi nhìn thấy ba ông Tam trước đó đang ẩn nấp trong những lùm cây bên kia đường cái quan bỗng nhiên đồng loạt nhảy bổ ra đứng giữa đường, nét mặt đằng đằng sát khí khua chân múa tay loạn xạ. Tôi sững người trong vài giây, chôn chân dưới ruộng rau muốn ven đường và sau vài cái chớp mắt thì tôi mau chóng nhận ra có điều bất thường khi ba ông Tam người vung kiếm, kẻ giơ đao tả đột hữu xung kèm theo những tiếng thét không ngớt.

Họ đang chiến đấu với không khí!

- "Bỏ mẹ rồi!" - Tôi giật mình. - "Âm binh mà cũng vô hình ư?"

Ba ông Tam vừa đánh vừa lui dần về phía Đông dọc theo đường cái quan trong khi tôi lúng túng không biết mình phải làm gì vào lúc này, tôi cần một lời chỉ dẫn nhưng không có.

- Rút! Rút thôi!

Tôi nghe tiếng thét lớn nhưng chẳng biết là của ông Tam nào, kế đó là một lời cảnh báo:

- Cò Tý! Xung quanh có địch!

Dứt lời, ba ông Tam lùi nhanh hơn và nhoáng một cái tôi chỉ còn nhìn thấy bóng lưng của ba ông nhạt dần chỗ khúc cua đầu làng.

- "Mình thành hiệp sĩ mù rồi, chắc chắn bọn âm binh đang ở đâu đó quanh đây, chắc chắn là như thế!"

Tuy đã tự khẳng định như vậy nhưng chính tôi cũng không tin bởi lúc này tôi vẫn đang ngậm lá vối, tôi có thể nhìn thấy ba ông Tam cớ sao lại không thấy bóng ma nào khác? Để chắc ăn, tôi vung vẩy thanh kiếm ra xung quanh nhằm tự trấn an tinh thần của mình. Tôi đã từng vô hình trước những người trần mắt thịt nên phần nào hiểu được bản thân mình bây giờ đang rơi vào tình huống khó khăn như thế nào khi đối phương ở trong tối còn mình ngoài sáng.

Tôi đứng trước hai lựa chọn, ba chân bốn cẳng chạy về làng hoặc quay lại kiểm tra bên trong lò gạch như ý định trước đó. Sau một hồi lưỡng lự suy tính thiệt hơn, tôi quyết định sẽ một mình quay lại lò gạch cũ mà không cần sự trợ giúp của ba ông Tam. Cho đến lúc này tôi vẫn cảm thấy mình ổn, toàn thân không cảm nhận được những cơn ớn lạnh nhưng đâu đó quanh chỗ tôi đang đứng vẫn thoảng có mùi chuột chết.

Nhặt được vài cục đất khá vừa tay ở ven đường, tôi hít vài hơi thật sâu trước khi lom khom nhắm hướng lò gạch tiến đến. Tôi ném mấy cục đất về phía lò gạch ở một khoảng cách đủ gần nhằm đánh động nhưng ngoài âm thanh rào rào của đất vỡ vụn rơi xuống đất thì chỉ còn âm thanh vi vu của tiếng sáo diều réo rắt bên tai. Ngồi nấp bên lùm cây thêm khoảng thời gian vẫn thấy mục tiêu không có động tĩnh gì nên tôi quyết định tiến lên tiếp mặc dù tim đập mạnh và đôi chân cũng có phần run rẩy. Nếu có biến thì tôi sẽ quay lưng chạy thục mạng, chắc chắn là như thế nhưng tính tò mò đã chiến thắng nỗi sợ hãi thường trực trong mỗi bước chân của tôi. Cứ tiến được chừng dăm bước chân là tôi lại ngồi thụp xuống quan sát, nghe ngóng động tĩnh, phải cho đến khi lưng dựa vào bức tường của lò gạch thì tôi mới tạm tin rằng chắc chắn nhóm của họ chỉ có ba người và đã rời đi khi nãy rồi. Tuy vậy, để chắc chắn hơn vào nhận định của mình, tôi vẫn cẩn thận nép mình đi gần như một vòng quanh lò gạch rồi nhặt vài viên gạch vụn ném vào bên trong.

Chỉ có âm thanh của những viên gạch vụn vọng ra ngoài.

Thò đầu rồi đặt chân vào bên trong lò gạch một cách đầy cảnh giác, tôi nhanh chóng phát hiện ra trong thứ ánh sáng lờ nhờ có ánh nến hắt đến. Trước mắt tôi bây giờ là một ngọn nến to đặt trong một cái đĩa bằng sứ màu trắng, xung quanh ngọn nến còn có một hình nhân bện bằng rơm, vài miếng vải xô có viết những Hán tự, vài chén rượu được rót tràn cả ra ngoài, gần đó thì gạo với muối rắc đầy trên nền đất. Tôi không biết đây là bùa ngải hay thứ gì đó đại loại như vậy bởi hiểu biết của tôi vốn có hạn nhưng tôi tin rằng những món đồ kỳ dị này được để lại hẳn là có nguyên do của nó vì nến vẫn còn đỏ lửa, năm cây hương to bằng ngón tay út cắm xuống đất vẫn tỏa ra mùi hương dịu nhẹ như mùi nước hoa cũng đã cháy được hai phần ba và quan trọng hơn cả, trên nền đất gồ ghề có mấy que tre được xếp lại với nhau có chủ ý.

Tôi biết mình không nên đụng tay vào những thứ này nhưng muốn phá bĩnh cũng cần phải nghĩ cách. Sau khi ngó nghiêng một lượt khắp xung quanh, tôi nhanh chân chuồn ra ngoài bởi ngồi xổm ở bên trong tôi luôn có cảm giác lạnh gáy.

Trước lúc rời nhà tôi có chuẩn bị một chai nước tiểu nhưng khi nãy đã đổ hết đi rồi, ngoài nước tiểu ra thì tôi không nghĩa ra cách nào khác. Nước tiểu của tôi bây giờ sợ rằng không còn hiệu nghiệm giống như vài năm trước bởi tôi đã không còn là trẻ con:

- "Nhưng chẳng còn cách nào khác, quanh đây nước bẩn cũng chả có, thôi đành vậy!"

Tôi lấy chai rượu nằm ở một góc bên trong lò gạch mà ba người kia bỏ lại, dốc ngược chai đổ hết rượu đi và thay vào đó là thứ nước có màu vàng nhạt, mùi hơi nồng do chính tôi tự tay sản xuất. Bởi "nước thánh" trong chai không nhiều nên tôi không dám dùng phung phí. Đầu tiên tôi đổ nước giải làm tắt năm que hương, tiếp đó tôi đổ phần lớn thứ nước có mùi lên hình nộm nho nhỏ bện bằng rơm và vài tấm vải xô vì tôi cho rằng những thứ này là nguy hiểm nhất, và sau cùng ngọn nến cũng tắt ngúm khi những giọt nước giải cuối cùng được đổ lên. Ngay khi ngọn nến vừa tắt, lập tức có một cơn gió lớn từ bên ngoài cánh đồng lùa mạnh qua những lỗ thoáng nham nhở cùng mấy cái cửa vào nơi tôi đang ngồi khiến bụi bay mù mịt. Tôi chỉ thiếu điều ho sặc sụa khi mà bụi đất tích tụ lâu ngày bên trong lò gạch nhanh chóng dính đầy mặt, miệng và quần áo. Tôi nhắm tịt mắt vội vàng đứng lên lần theo bờ tường dò dẫm bước được ra bên ngoài. Việc một cơn gió bất thần thổi đến làm tôi linh cảm rằng những gì mình vừa mới làm ít nhiều cũng đã có hiệu quả.

Tôi ngồi xổm gần bên một lối vào, lưng quay vào tường mặt hướng ra phia cánh đồng, liên tục nhổ phì phì cho sạch đất cát dính trong khoang miệng, cái khăn che mặt không giúp tôi tránh được lớp bụi đỏ quạch. Mắt nhắm mắt mở, tôi lấy vội được chai nước vối mang theo trong ba lô ra để súc miệng và cảm thấy dễ chịu hơn hẳn. Những cơn gió nhẹ vẫn không ngừng thổi đến, tôi có thể thấy được bởi những cây cỏ gần đó không ngừng lay động. Bụi từ trong lò gạch sau một hồi cuộn lên trong một không gian tương đối kín đã hắt ngược trở ra thông qua những lổ hổng và cả lối vào gần chỗ tôi đang ngồi.

Tôi kiên nhẫn ngồi chờ đợi cho đến khi nhận thấy bụi bặm đã bớt hẳn mới mò vào bên trong dùng đèn pin bấm bật tắt liên hồi nhằm xem lại những đồ vật ban nãy. Qua ánh đèn pin, tôi nhìn thấy lớp bụi vẫn lơ lửng ngay trước mắt và tất cả những món đồ ban nãy tôi vừa đổ nước giải lên đều đã được phủ một lớp bụi màu nâu đỏ. Sau khi lia đèn pin kiểm tra thêm một lần nữa và không có ý định đụng chạm gì thêm thì tôi mới quay lưng bước ra ngoài. Tôi còn cẩn thận đến mức tìm một cành khô vạch những nét nguệch ngoạc trên lớp bụi hòng xóa đi dấu chân in rõ trên nền đất phòng trường hợp những người kia quay lại đây một lần nữa.

Lom khom băng qua những ruộng rau, tôi nhắm hướng ngôi nhà chứa xe tang đi mà như chạy, không hề ngoái đầu lại. Bên tai tôi vẫn còn vang vọng tiếng sáo diều, bây giờ đã là cuối hè, trăng sáng vằng vặc nên việc một anh thanh niên nào đó thả sáo diều qua đêm cũng không phải là chuyện quá lạ lẫm, vậy nên tôi không thắc mắc nhiều. Tựa lưng vào bức tường của ngôi nhà cấp bốn sập xệ, tôi uống thêm vài ngụm nước vối nữa trước khi dùng để rửa mặt cho tỉnh táo. Lúc này tôi mới thấy mình khá mạo hiểm khi một mình mò vào trong lò gạch kia. Nay mai gặp chị Ma, tôi nhất định sẽ hỏi rõ ngọn ngành mọi việc, kể cả hình nhân dùng để cúng bái mà tôi nhìn thấy khi nãy nữa. Hồi còn nhỏ thì tôi cũng đã đôi lần nhìn thấy những hình nhân, ngoài chất liệu từ rơm rạ, chúng còn được làm từ vải. Điểm chung của những hình nhân mà tôi từng nhìn thấy là chúng mang đến cho tôi cảm giác khó chịu, ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu tôi luôn là tìm cách phá hỏng chúng nhanh nhất có thể.

Thay vì đi thẳng về hướng cổng làng cách nhà để xe tang chỉ vài trăm mét thì tôi quyết định đi ngược về hướng Cầu Khoai. Ba bóng đen khi nãy, trong đó có cái gã sở hữu giọng nói ái nam ái nữ the thé như mẹ ranh, rất có thể đang ngồi đâu đó trong một bụi rậm rình mò hoặc đường hoàng hơn, họ sẽ ngồi trong quán nước nhâm nhi một chén nước chè nóng chờ đợi điều gì đó. Tôi bây giờ từ đầu đến chân được phủ một lớp bụi đỏ au như vừa từ dưới đất chui lên, nếu bây giờ tôi đi về theo lối đó mà vô tình đụng mặt ba người kia hẳn sẽ có nhiều chuyện không hay xảy đến mà tôi không lường trước được. Tôi không lo cho số phận của ba ông Tam, ba ông đó nếu như có bị âm binh truy đuổi thì rút chạy vào làng là xong. Xưa nay tôi chưa thấy âm binh lạ vào trong làng tôi bao giờ, trừ khi chủ nhân của chúng vào trong làng sau đó mới làm phép gọi lên.

Cuốc bộ men theo đường cái chừng ba trăm mét là đến địa phận bãi tha ma Cầu Khoai, ngay lối vào có cái cây cao quanh năm trơ trụi lá. Ông nội tôi, bà nội Cả và em gái của tôi cùng yên nghỉ trong bãi tha ma này còn tổ tiên các đời trước mộ phần nằm ở một góc ruộng nào đó xung quanh làng. Lúc này tôi muốn nhanh chóng băng qua cầu Khoai, cái cầu tạm cũ kỹ làm từ tre và gỗ bắc ngang qua mương Khoai, để đánh một vòng về nhà thay quần áo, dội qua người vì nhìn trăng bây giờ hãy còn chưa đến cuối giờ Hợi. Đôi chân đang bước xuống dốc, gần đến lối rẽ lên cầu Khoai thì tôi dừng chân ngoái đầu lại nhìn phía sau lưng một hồi lâu suy nghĩ. Tôi cảm thấy có điều gì đó rất lạ nhưng nhất thời chưa thể nghĩ ra nhưng khi tôi quyết định mặc kệ để về nhà thì cũng là lúc tôi nhận ra rằng điều lạ lạ mà tôi vừa nghĩ chính là tiếng sáo diều vi vu đã ngừng thổi.

- "Vậy ra tiếng sáo diều là của mấy anh làng mình thả ư?"

Thanh niên làng tôi, những người hơn tuổi tôi đang sống ở làng không nhiều, đếm đi đếm lại còn chưa hết hai bàn tay mà nếu tôi nhớ không nhầm thì trong số các anh đó chỉ có hai hoặc ba anh từng thả sáo điều trước đây.

- "Mình cứ cảm thấy có gì đó khó hiểu". – Tôi đứng bần thần. – "Nếu bây giờ mình mò về nhà nhỡ đâu ma xó hay âm binh nó theo được thì sao nhỉ? Ây, thế thì phiền lắm, tự nhiên lại rước họa vào thân mà không về thì…

Tôi nhìn bộ quần áo dính đầy bụi của mình khẽ thở dài:

- "Chẳng lẽ nhảy xuống mương tắm giờ này? Nước cạn nhưng…" - Tôi tặc lưỡi. – "Mà bây giờ mụ Mẹ Chẽ tiêu tán rồi, sợ cái đếch gì mà không rửa ráy mặt mũi chân tay?"

Tôi sợ nước! Đó là sự thật không thể chối cãi. Trải qua gần mười tám năm cuộc đời nhưng tôi cũng đã kịp thoát đuối nước ít nhất là hai lần rồi, thế nên tôi cảm thấy ái ngại khi đêm hôm lò dò bước xuống mương.

***