Chương 76: Trấn Thuận Thành
Trấn Thuận Thành là một phiên thuộc tự trị của Đại Việt dưới quyền triều đình Tây Sơn, hiện tại do Po Tisuntiraidapuran thành viên cuối cùng của vương tộc Panduranga giữ ngôi đại thống và cai trị, đáng lẽ ra theo lịch sử Panduranga đã bị Nguyễn Ánh tiêu diệt không lâu sau khi Thái Đức hoàng đế Nguyễn Nhạc qua đời nhưng với việc Cảnh Thịnh ngự giá thân chinh trong trận đánh tại Diên Khánh đã khiến cho Nguyễn Ánh thay đổi sự chú ý của mình từ Chân Lạp sang âm mưu đánh chiếm kinh thành Phú Xuân hòng nhanh chóng đánh bại nhà Tây Sơn, kết quả cuối cùng quân Nguyễn thất bại tan tác sau khi chịu nhiều tổn thất về người và của đành phải rút chạy về lại Gia Định, co đầu rút cổ.
Lúc này, Po Tisuntiraidapuran rất là lo lắng trong lòng, quân Xiêm La nhiều ngày nay đang bắt đầu hội quân đông đảo ở Vạn Tượng, ý đồ xâm chiếm Trấn Thuận Thành lộ rõ không thèm che giấu. Po Tisuntiraidapuran đã gửi thư cho triều đình Tây Sơn yêu cầu tiếp viện khẩn cấp, triều đình Tây Sơn cũng đã hồi đáp lại rằng sẽ cử quân đến giúp triều đình Panduranga chống lại người Xiêm, Po Tisuntiraidapuran không biết lúc nào quân Xiêm sẽ tấn công mà với sức mạnh yếu ớt của quân đội Chân Lạp hiện tại thì không có cách gì có thể chống lại bước tiến của Xiêm La, y chỉ biết cầu nguyện cho quân tiếp viện Tây Sơn mau chóng đến kịp.
Trấn Thuận Thành bước vào mùa khô, cái nắng gay gắt chói chang hiện hữu trên cao khiến cho không khí càng thêm nóng bức hơn bao giờ hết nhưng sự nóng bức khó chịu ấy cũng không thể làm chùn bước chân hành quân của hai vạn quân tinh nhuệ của Tây Sơn. Đại đô đốc Vũ Văn Dũng cùng Đô đốc Nguyễn Văn Huấn và một số cố vấn quân sự sĩ quan người Pháp vâng lệnh của Cảnh Thịnh dẫn hai vạn bộ binh và kỵ binh tinh nhuệ đến tiếp viện cho Po Tisuntiraidapuran đánh tan sự xâm lấn của quân Xiêm La cùng Vạn Tượng, cuộc chiến lần này là cũng để thử sức mạnh mới của quân đội Tây Sơn sau một năm cải cách và huấn luyện.
Từ đằng xa nhìn lại, đội hình hai vạn quân Tây Sơn kéo dài, uốn éo trên con đường mòn hệt như một con rồng đang di chuyển, mỗi người lính Tây Sơn tinh thần no đủ, quân phục thuần một màu xanh lá, lưng đeo ba lô, kiếm treo bên hông, súng vác trên vai, lưỡi lê sáng lóa chỉa thẳng lên trời nhọn như rừng chông. Lấp ló bên trong những chiếc xe ngựa là những khẩu pháo cơ động, lần này chi viện cho Trấn Thuận Thành rất gấp nên đội Tượng pháo binh của Bùi Thị Xuân không thích hợp theo quân.
Đại đô đốc Vũ Văn Dũng nhìn thấy từng người lính Tây Sơn vác trên vai khẩu súng kíp thì không khỏi cảm thấy bùi ngùi ở trong lòng, chỉ mới bấy nhiêu năm mà súng ống đã thay gươm giáo, cho dù có võ nghệ tốt cũng không thể phát huy nhiều ở trên chiễn trường, ngay cả hắn cũng đã thay đổi rất nhiều, vũ khí tùy thân không còn là cây thương dài quen thuộc mà thay bằng hai khẩu súng kíp ngắn loại đặc biệt được Xưởng quân khí sản xuất để biên chế cho các cấp chỉ huy, rốt cuộc thì thời đại cũ của vũ khí lạnh đã qua, võ công đã không bằng võ đạn.
Biển Hồ rộng lớn của xứ này khiến cho bất cứ ai đứng trước nó đều phải cảm thán tự nhiên thật là hùng vĩ, biển hồ rộng mênh mông không thấy bờ cuối, sóng xô lăn tăn như đại dương, mặt nước hệt như một tấm gương khổng lồ phản chiếu mây trời, ánh lên màu xanh ngọc bích.
Trấn Thuận Thành đất đai màu mỡ, nguyên một dãi đồng bằng rộng lớn, đất đai phì nhiêu, lại không bao giờ thiếu nước nhờ có Biển Hồ tồn tại cực kỳ thích hợp cho canh tác nhưng mà cái xứ sở này cũng trải nhiều phen chiến loại, là nơi giao chiến của Đại Việt và Xiêm La khiến cho số lượng dân cư vốn ít ỏi nay lại càng thêm thưa thớt. Hành quân vào Trấn Thuận Thànhbao nhiêu ngày nay mà Vũ Văn Dũng chỉ trông thấy được vài làng mạc hoang sơ với dân số độ vài trăm người, hầu hết dân cư Trấn Thuận Thành đều tập trung sinh sống ở kinh đô Nam Vang.
Theo tài liệu mà Hoàng Vệ cung cấp cho Vũ Văn Dũng, ở kinh đô Nam Vang và các vùng ngoại thành xung quang nó tụ tập khoảng hai mươi vạn dân cư, quân thường trực của thành Nam Vang chỉ khoảng hai vạn nhưng mà trang bị cực kỳ yếu ớt, quân Xiêm La - Vạn Tượng có chừng bảy vạn đến tám vạn quân được trang bị không kém quân Tây Sơn còn có lính đánh thuê Tây Ban Nha hỗ trợ, thế đến hung hãn nếu như Nam Vang không có Tây Sơn viện quân thì chắc chắn Po Tisuntiraidapuran sẽ bại cực kỳ nhanh chóng và thê thảm.
Từ xưa đến nay, các triều đại của Đại Việt đều sử dụng Trấn Thuận Thành như một phiên thuộc tự trị để làm vùng đệm với quân Xiêm La nhưng mà cách tính toán này đôi khi hại nhiều hơn lợi, các phiên vương tuy mặt ngoài thuần phục nhưng đều là cỏ đầu tường, chỉ cần Đại Việt có hơi chút suy yếu là các phiên vương này quay ngoắt sang phe Xiêm La thậm chí còn hợp binh để nhân lúc Đại Việt suy yếu mà xâm chiếm.
Lúc này đây, Đại đô đốc Vũ Văn Dũng cùng Đô đốc Nguyễn Văn Huấn ngoài việc dẫn đại quân Tây Sơn đến chi viện Po Tisuntiraidapuran chống lại đà tiến quân của Xiêm La còn vâng theo mật chỉ của Cảnh Thịnh nhân cơ hội mà hủy đi vương triều Po Tisuntiraidapuran, chính thức biến Trấn Tây Thành thành một vùng đất của Đại Việt, đưa các quan lại người Việt đến phân định Phủ, Trấn, Làng, Xã để cai trị, đồng thời khuyến khích người Việt đến đây định cư, đồng hóa dân bản địa của Trấn Tây Thành.
Hai vạn quân tinh nhuệ Tây Sơn được trang bị đến tận răng, đầy đủ vũ khí đạn dược và lương thực, chỉ cần khéo léo xây các công sự theo sự tư vấn của các sĩ quan tham mưu người Pháp là có thể biến Nam Vang thành một pháo đài quân sự mài rơi quân Xiêm La tại đây, tiến công không đủ nhưng phòng thủ thì có thừa, hơn nữa quân Tây Sơn còn được trang bị lựu đạn Hỏa Hổ loại vũ khí có sức sát thương cực kỳ khủng khiếp mà chưa có bất kỳ quân đội nào của các nước trong khu vực có được, kể cả Thanh Quốc.
Cảnh Thịnh đã dặn đi dặn lại Đại đô đốc Vũ Văn Dũng nhất định bằng mọi giá phải kiềm hãm bước tiến của quân Xiêm La, Vũ Văn Dũng muốn hung ác một chút, trước tiên dùng quân đội của Po Tisuntiraidapuran làm lớp phòng thủ thứ nhất, làm bia đỡ đạn để tiêu hao hỏa lực của quân Xiêm La sau đó mới tới quân đội Tây Sơn ra sân.
Lúc này, Po Tisuntiraidapuran đang ở trong vương cung ăn uống nhậu nhẹt thì có quan cận thần đến báo là viện quân Tây Sơn đã đến, còn cách kinh đô Nam Vang hơn hai mươi dặm đường. Po Tisuntiraidapuran nghe vậy thì lấy làm vui mừng quá đỗi, y vội vàng thay sắc phục gọi lên các đại quan cùng dẫn theo hộ vệ ra cách thành mười dặm nghênh đón. Lúc nhìn thấy hai vạn quân Tây Sơn, Po Tisuntiraidapuran không khỏi cảm thấy khiếp sợ trong lòng, đội quân này khác hẳn với hình ảnh của quân Tây Sơn trước đây dưới thời Quang Trung Hoàng Đế, binh lính thuần một màu quân phục, kỷ luật sâm nghiêm, mỗi người đều được trang bị một khẩu súng kíp hỏa mai, điều mà quân đội của Po Tisuntiraidapuran không hề có được.
Hai vạn quân Tây Sơn chỉ đứng nghiêm trầm mặc tại chỗ, đã có một cỗ khí thế sắc béng đập vào mặt Po Tisuntiraidapuran và các quan đại thần khiến cho bọn họ có cảm thấy khiếp đảm. Po Tisuntiraidapuran cử sứ giả lên trước mời Đại đô đốc Vũ Văn Dũng cùng Đô đốc Nguyễn Văn Huấn ra gặp mặt.
Đại đô đốc Vũ Văn Dũng cùng với một đội cận vệ bước ra đi gặp Po Tisuntiraidapuran cùng các quan cận thần của y để bàn bạc, Đô đốc Nguyễn Văn Huấn lưu lại cho quân đóng trại nghỉ ngơi tại chỗ đề phòng bất trắc.
Điều làm cho Đại đô đốc Vũ Văn Dũng khá bất ngờ là Po Tisuntiraidapuran nói tiếng Việt rất giỏi, điều này cũng làm cho hắn bớt việc, có thể bàn bạc trực tiếp với Po Tisuntiraidapuran mà không cần thông qua người phiên dịch. Po Tisuntiraidapuran bày tỏ muốn bày tiệc mừng khao thưởng binh lính Tây Sơn nhưng xuất phát từ sự cẩn thận Đại đô đốc Vũ Văn Dũng đã khéo léo lấy cớ từ chối, bất đắc dĩ Po Tisuntiraidapuran chỉ đành xuất một số tiền lớn từ quốc khố để thưởng cho binh lính Tây Sơn dù sao người ta cũng không ngại đường xá xa xôi đến đây viện trợ, Po Tisuntiraidapuran là quốc vương của Trấn Thuận Thành cũng phải thể hiện ra chút thành ý.