Chương 9: Thời đại lạc hậu

Khí Vận Quốc Gia

Chương 9: Thời đại lạc hậu

Chương 9: Thời đại lạc hậu


Hoàng cung Hoa Lư,

Thành Nội,

Dưỡng Tâm điện,

Sau khi bồng Ngô Nhật Hoa vào phòng ngủ nghỉ ngơi lại dặn dò cung nữ chăm sóc cẩn thận. Đinh Liễn đi ra Thư phòng. Nơi đây đã được thái giám đốt lên chậu than to để sưởi ấm.

Bóng đêm ngày đông xuống mau, trời càng thêm trở lạnh, nơi đây sát núi gần sông nên cái lạnh cũng thêm khắc nghiệt.

Trong trí nhớ của Đinh Liễn kiếp trước, hoàng cung Hoa Lư có diện tích 300 ha bao gồm cả núi đá, sông hồ Sào Khê - một nhánh của sông Hoàng Long. Chia làm ba phần: thành nội, thành ngoại và thành nam. Các khu thành này đều được bao quanh bởi các dãy núi đá vôi - gọi là bức thành thiên nhiên. Ở giữa các dãy núi được nối lại bằng các đoạn tường thành gạch. Các đoạn tường này làm bằng gạch nung, độ dày gần nửa mét. Địa thế rất hiểm trở, dễ thủ, khó công. Lại có các con đường bộ và đường sông, tiến lui đều dễ dàng.

Thành Nội là nơi đặt cung Thái Hòa để làm việc, Dưỡng Tâm điện và Dưỡng Thân Điện, Tẩm cung
là nơi các hoàng hậu ở. Sau lưng dựa núi Phi Vân, bên trái có núi hang Muối, phía trước lệch phải là núi Yên Ngựa, có hồ nước Sào Khê bao quanh, phía xa là núi Hang Quàn, dãy Ghềnh Tháp, bên trái là núi cột cờ, có đường thông ra sông Sào Khê và đi Thiên Tôn.

Thành Nội và thành Ngoại được nối liền với nhau bằng một cửa quèn Đốt. Thành Ngoại có diện tích lớn hơn thành Nội. Là nơi cho bách quan và hoàng tộc ở. Đinh Liễn và gia đình cũng ở nơi này. Địa thế ba mặt giáp núi, một mặt giáp sông Hoàng Long. Nơi đây cũng đặt Nhà kho Quốc Khố của triều đình.

Phía Nam là thành Nam, chủ yếu là đặt doanh trại Ngự lâm quân. Nơi đây nối thẳng ra thành Tràng An. Dân cư, chợ búa cũng được giao dịch ở đây. Tràng An có diện tích hơn 12.000 ha. Hoàng cung trong đó đã hơn 300ha. Khu Tam Cốc - Bích Động rộng 350 ha, Khu dân cư kinh đô Tràng An chiếm hơn 2.000 ha, số diện tích còn lại vẫn rừng rậm, đầm lầy, núi non chưa được khai thác. Cả kinh đô bị bao quanh bởi bốn con sông là sông Hoàng Long, sông Chanh, sông Hệ, Sông Bến Đang. Ngoài dân Kinh đô thì xung quanh có 20 xã. Các xã này vừa sản xuất nông nghiệp, vừa làm thủ công nghiệp phục vụ cho Hoàng cung và kinh đô như làng gốm, làng xây dựng, làng dệt vải, làng đúc tượng, làng rèn sắt, làng chài...

Đường bộ ở đây 99% là đường đất, chỉ có trong hoàng cung mới có đường lát gạch. Đường rộng nhất cũng chỉ khoảng 5m. Mùa đông mưa phùn hay mùa hạ mưa rào rất lầy lội bùn đất.

Kiến trúc ở Hoàng cung thì phần lớn là nhà cấp 4. Gọi là Điện chứ thiết kế như chùa, đền vậy. Mỗi điện cũng chỉ có năm đến mười gian phòng làm bằng gỗ, cao từ năm đến mười hai mét mà thôi. Dân kinh đô nói riêng và dân các nơi nói chung đều là nhà tranh, vách đất. Tường làm bằng hỗn hợp bùn đất và rơm rạ. Mái làm khung tre hoặc gỗ, lợp rơm hoặc cỏ tranh.

Tài nguyên gỗ, đá thì có nhiều đấy, có sẵn khắp mọi nơi nhưng do sự lạc hậu về công cụ khai thác và phương thức sản xuất nên cuộc sống sinh hoạt của nhân dân rất cực khổ. Đồ bằng sắt, gang cũng có nhưng khá hiếm, thép thì chưa từng xuất xuất hiện. Nhà Tống cấm xuất khẩu sắt thép nên cũng không phổ biến. Gỗ có bạt ngàn nhưng khổ nỗi khai thác khó khăn. Hiện thời vẫn chặt bằng rìu gang, rìu sắt, chưa xuất hiện thứ gọi là cưa hay các công cụ chế biến gỗ. Đá có sẵn nhưng khai thác cũng rất hạn chế do không có thuốc nổ, bằng tay hay đục sắt thì đào không nổi.

Để chứa lúa, thóc, ngũ cốc hay nhà kho, Đinh Bộ Lĩnh phải tận dụng các hang đá. Thế cho nên nơi đây có rất nhiều hang như:Hang Muối, Hang Địa Linh, Hang Sinh Dược, Hang Mây, Hang Tối, Hang Sáng, Hang Nấu Rượu, Hang Núi Cơm, Hang Vồng, Hang Láng, Hang Ao Trai, Hang Trống, Hang Bói, Hang Mo, Hang Cò, Hang Trâu, Hang Hũ ngoài, Hang Hũ trong, Hang Chợ... Thử nghĩ mà xem, đến vua còn sống như thời nguyên thủy thì dân chúng khổ như thế nào.

Thời này ăn mặc chất liệu cũng chỉ là vải đay, vải bố, vải sợi chuối, vải tơ sen. Vải tơ lụa cũng có nhưng chỉ có vua, hoàng tộc, và quan lại mới có để mặc vào dịp đặc biệt như lễ hội, vào chầu. Đối với dân thường thì đó chỉ là món hàng xa xỉ phẩm.

Tra xét kí ức của kiếp này và đọc các tài liệu để ở thư phòng Đinh Liễn thở dài ngao ngán. Sự chênh lệch cuộc sống hai kiếp quá lớn khiến cho hắn càng hoài niệm về cuộc sống hiện đại. Tuy thời hiện đại có nhiều áp lực nhưng chất lượng cuộc sống quá tốt. Hắn nhớ các món ăn, hắn nhớ các nhà hàng, quán bar, karaoke, khu vui chơi giải trí, các khách sạn, resort... Lúc đó mình thấy quá bình thường, giờ có sự so sánh mới thấy cuộc sống hiện đại sướng như tiên. Có lẽ tiền nhân cũng không thể hiểu nổi tại sao các món ăn tiến vua, nem công chả phượng thì trẻ con hậu thế ăn cũng không nổi chứ đừng nói là ngon.

Thở một hơi trọc khí đầy sương trắng, hắn lấy hai tay day day huyệt. Thôi. Trở về đã không được vậy phải tiếp tục mà sống. Bằng quyền lực và địa vị của mình hắn có thể cải tạo lại sinh hoạt. Cho dù không bằng kiếp trước thì cũng đỡ hơn phần nào.

Đinh Liễn đứng lên, bước ra phía cửa sổ, hé mở nhìn ra ngoài. Lúc này, Hoàng cung Hoa Lư vẫn thắp đuốc sáng trưng. Nơi nào đó còn văng vẳng tiếng khóc than của những người góa phụ. Nơi khác thì vang lên tiếng cầu xin của cung nữ, thái giám đang bị tra khảo. Lâu lâu lại nghe tiếng hổ gầm ghê rợn.

Ngự lâm quân vẫn tra xét mọi nơi nhằm tìm kiếm hoạn quan Đỗ Thích. Nơi nào đó, vài bóng đen tụ lại thì thầm to nhỏ. Nơi khác thì người ra kẻ vào chuẩn bị vật liệu cho lễ đăng cơ ngày mai và lễ quốc tang sắp tới...

Đêm nay thật dài với nhiều người. Có người chờ mong hoan hỷ, có kẻ buồn bã ưu sầu. Có người mặt cười hưng phấn, có kẻ lo lắng bất an. Người vốn là động vật cảm tính, suy nghĩ luôn hướng đến sự rối rắm. Có những việc thật đơn giản lại suy nghĩ thành phức tạp. Có những sự việc phức tạp lại suy nghĩ cho nó phức tạp thêm.

Quyền lợi, địa vị, danh vọng, sắc đẹp, vốn là biểu tượng của Phúc phần, là kết quả của nhân duyên hội tụ, là quà tặng hồi đáp của Khí vận quốc gia mà nay lại trở thành một thứ thuốc độc nhấn chìm bao kẻ tham lam.

Vì quyền lợi, người ta sẵn sàng đạp đổ mọi ranh giới đạo đức. Vì địa vị người ta sẵn sàng phản bội người đã nâng đỡ mình. Vì tiền tài người ta sẵn sàng đâm sau lưng chiến hữu. Vì chữ tình người ta sẵn sàng hạ độc trượng phu...

Không cứ thời hiện đại hay thời cổ đại, lòng người vốn là như thế. Tham, sân, si, mạn, nghi luôn là thứ độc dược khiến lòng người mê loạn, đánh mất chính mình. Có chăng, thời hiện đại là thời của pháp chế, có sự ràng buộc mạnh mẽ của luật pháp khiến cho con quái vật bản năng và những toan tính âm u trong lòng người bị áp chế.

Thời đại này, luật pháp chưa có, xã hội còn hỗn loạn tưng bừng, con người cũng không kiêng nể gì cả, muốn cái gì thì ra tay đoạt cái đó. Kẻ mạnh làm Vua, kẻ thua mất hết. Tính dã man của một thời đại chưa khai hóa thật trực tiếp, chính là cái gọi Luật rừng. Đinh Liễn trầm ngâm suy nghĩ.

Cũng may quá trình dung hợp thần hồn và thân thể gây ra dị tượng quá hoành tráng vô tình thu phục những kẻ trung dung, tạm thời trấn áp những kẻ ác ý. Ta cũng vì thế mà đăng cơ thuận lợi. Đêm nay, những kẻ ấy chắc chắn sẽ mất ngủ, bất an và lo lắng. Sơ hở của chúng chắc chắn là từ Đỗ Thích nên kẻ này kiểu gì cũng bị thủ tiêu để bịt đầu mối. Sau đó, chúng sẽ bịa ra lý do gì đó đổ tội cho kẻ này và xóa sạch dấu vết.

Tiếp đến chúng sẽ án binh bất động, chờ thời cơ mưu đồ Đông Sơn tái khởi. Nếu không nhanh chóng tiêu diệt, e rằng ta chẳng có đêm nào ngủ ngon. Chỉ có một ngày bắt trộm chứ nào có ngàn ngày phòng trộm? Xem ra, ngày mai nhân lễ đăng cơ, ta phải chủ động xuất kích, đánh cỏ động rắn, dẫn xà xuất động. Chỉ cần dồn chúng vào thế loạn quyền, loạn cước mới có cơ hội tóm gọn, tiêu diệt.

Thở dài một tiếng, Đinh Liễn lên tiếng:

- Người đâu?

- Muôn tâu bệ hạ, nô tài có mặt

Một thái giám bước vào quỳ xuống hô.

- Ngươi mau đi mời quốc công Đinh Điền lại đây.

- Nô tài tuân chỉ.

Thái giám nhận lệnh, đứng lên lùi ra ngoài rồi nhẹ nhàng khép cửa lại.

" Quốc công Đinh Điền từ nhỏ đã đi theo lão cha, lòng trung thành không cần bàn cãi. Kiếp trước, chính Đinh Điền đã cùng Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Trịnh Tú, Phạm Hạp và hơn 30 quan tướng trung với Tiên Đế dấy binh khởi nghĩa phản kháng Lê Hoàn. Tuy rằng sau đó thất bại thảm hại nhưng tấm lòng trung nghĩa là không hề phải bàn cãi. Người này ta có thể tranh thủ..."

Đang suy nghĩ miên man thì tiếng nói của thái giám bên ngoài vọng vào.

- Bệ hạ. Đinh Quốc Công đã tới...

- Cho mời vào.

Cánh cửa mở ra, Đinh Điền bước vào, thấy Đinh Liễn đang đứng quay lưng, hai tay chắp về phía sau, mắt nhìn vào bức tranh Sơn Hà thì vội cúi xuống, hai tay vòng lên phía trước hô:

- Thần, Đinh Điền, khấu kiến bệ hạ...

Lúc này Đinh Liễn quay lại, đi tới, cầm hai tay Đinh Điền đỡ lên, rồi nói.

- Trong này không có ai cả, Bác Điền không cần đa lễ. Mau ngồi xuống, rồi hãy nói chuyện.

Đinh Điền cảm động, nghe Đinh Liễn nói như thế biết Đinh Liễn coi mình như người nhà và có ý vẫn tiếp tục trọng dụng nên ông rất vui mừng. Làm người từng trải và lăn lộn trong giới quan trường ông rất hiểu chân lí " một đời vua, một triều thần". Bệ hạ vẫn nhớ tình cũ quả thật đáng quý nhưng không vì thế mà ông lên mặt cậy già.

- Ngài là Quân, bề tôi là Thần, dù cho cùng là hoàng tộc thì cũng không thể bỏ mất cấp bậc lễ nghi.

Biết Đinh Điền cũng là ý tốt và người này có tính cách con lừa nên cũng không miệt mài theo đuổi.

- "Bác trước uống cốc nước vối nóng cho ấm bụng, trời mùa Đông lạnh lẽo, bác cũng chú ý giữ sức khỏe, giang sơn này vẫn cần đến bác gánh gồng". Nói đoạn, Đinh Liễn cầm lấy ấm nước đang ủ trong Chĩnh rót cho Đinh Điền.

Đinh Điền hoảng sợ vội cầm hai tay đỡ:

- Để đó cho thần, để đó cho thần. Tạ ơn bệ hạ ban nước.

Cầm cốc nước ấm, hai tay run run. Đinh Điền cảm động quá. Trong khoảnh khắc, ông bỗng nhớ lại cái thời còn cầm quân dẹp loạn 12 sứ quân, khi gặp nhau bàn chuyện công sự, Đinh Liễn cũng khiêm cung, thân thiết như thế.

Sau này, khi Tiên Đế lên ngôi, mỗi người mỗi chức vụ, hai người cũng không còn đi lại gần gũi như thế nữa. Phần vì công sự bận rộn, phần vì giữ khoảng cách để cho Tiên Đế an tâm.

Nếu người thừa kế đi lại quá thân thiết với Thái sư đầu triều trong khi Hoàng Đế đang tại vị, khó tránh khỏi lòng nghi kỵ của Tiên Đế và dị nghị của bách quan. Gần vua như gần cọp, chân lý này tuyên cổ trường tồn.

Ngẩng đầu nhìn lên thấy Đinh Liễn sau khi khởi tử hồi sinh, thân thể thoát thai hoán cốt, trẻ lại như tuổi hai mươi, thần thái ung dung, khí chất cao quý, ông thấy hình ảnh Đinh Liễn của quá khứ như trùng điệp lại với hiện tại. Tuy có khác biệt về khí chất, thần thái nhưng thái độ vẫn thân thiết, khiêm cung như trước. Ông vội hỏi:

- Thưa bệ hạ, Ngài gọi thần đến là có chuyện gì ạ?

- Bác Đinh Điền, chuyện Tiên Đế cùng ta bị đầu độc, bác có cách nhìn thế nào?