Chương 27: Canh đầu cá thiên ma (2)

Đông A Nông Sự

Chương 27: Canh đầu cá thiên ma (2)

Chương 27: Canh đầu cá thiên ma (2)

Đầu bếp lật đật chạy vào, Bách kêu hắn chuẩn bị một con cá mè to, vài vị thuốc. Hắn dự định nấu món canh Đầu cá thiên ma. Thiên ma có tác dụng bình can tức phong, hoạt lạc, thông tý, có thể kết hợp với nhiều loại thực phẩm nhưng Bách chọn đầu cá vì đầu cá là loại bổ âm, rất phù hợp với thanh niên khí thịnh như Trần Quang Khải. Hai loại này khi kết hợp thành bài thuốc chống suy nhược thần kinh, đau đầu chóng mặt. Cách nấu cũng rất đơn giản, cá làm sạch, cắt lấy phần nửa thân trên, cho thêm thiên ma, xuyên khung, phục linh. Tất cả cho thêm gừng, hành tươi gia vị, nước, hầm trong nửa canh giờ. Sau đó, dùng nước nấu đậu phụ, nước xương bò hoặc xương lợn, đổ vào nồi hầm cá cho ngập nửa thân cá, thêm muối, gia vị, bột tiêu dầu thơm; đun sôi rồi mang lên dùng nóng. Đầu bếp tỏ vẻ hiểu ngay, chạy đi thực hiện. Dù sao hắn cũng thuộc dạng ngự trù, nấu món ăn kiểu này đối với hắn không khó. Dặn dò xong thì Trần Quang Khải nói:

- Ta đã quyết định bẩm việc này lên Thượng hoàng và Quan gia. Như vậy, việc mặt trời xuất hiện hai quầng đã thành việc lớn. Sinh mạng chính trị của ta và các ngươi đã gắn vào làm một. Để tối đa lợi ích việc này còn cần lão sư cho ý kiến.

- Ta đã suy nghĩ việc này, theo ta từ nay đến ngày 25 còn chục ngày. Chúng ta cần tuyên truyền việc này đến khắp các châu huyện. Có lẽ nên để bọn văn sĩ đưa lời là hợp ý nhất. Đại ý là Chiêu Minh Đại Vương đêm nằm mộng, thấy trời loan báo cha và anh ngài là bậc đế quân chịu thiên mệnh, ngày 25 sẽ giáng điềm lành ứng vào hai vua. Như vậy, người trong nước khi thấy hai quầng mặt trời sẽ coi như nhà Trần ứng lòng trời mà lập, không còn tơ tưởng đến tiền triều nữa.

- Việc này đúng là phải làm như vậy, không thể phát lời từ phía Thái thượng hoàng và Quan gia. Trong triều chỉ có ta và lão Quốc Tuấn làm là hợp nhất, nhưng lão quái đấy làm sao chịu làm việc này. Nhưng ta vẫn muốn làm gì đó để tuyên truyền tốt hơn, cho bọn cựu thần nhà Lý kia sau này không dám lời ra tiếng vào nữa.

Bách quay sang hỏi Lê Văn Hưu:

- Triều ta dịp nào người dân tụ tập đông đảo, hào hứng nhất?

- Chắc là các lễ hội lớn. Nhưng những lễ hội đầu năm đã qua hết rồi. Đến 25 không còn dịp nào dân chúng tụ tập nữa.

- Vậy có hoạt động giải trí nào tụ tập đông người không?

- Hoạt động đàn ca thì có nhiều, nhưng sao làm tập trung đông đảo nghe hát được, chỉ trăm người là không nghe thấy gì? Đúng rồi có xúc cúc …

Lê Văn Hưu như chợt nhớ ra điều gì. Quay sang bảo Bách:

- Chỉ có xúc cúc là tập trung đông người, lại vui vẻ náo nhiệt.

Xúc cúc là một loại hình đá bóng xuất hiện từ thời cổ đại ở Trung Quốc, phát triển đỉnh cao chính là thời Tống. Lúc đầu chỉ là một môn rèn luyện sức khoẻ cá nhân, một hay một nhóm người tâng bóng khoe kỹ thuật. Đến đời Tống, môn xúc cúc đã khá giống với bóng đá hiện đại. Bách biết chuyện này qua tiểu thuyết Thuỷ hử, tên tham quan Cao Cầu chỉ vì chơi xúc cúc giỏi mà vua Tống ưa thích đưa lên làm Thái uý. Nước ta lúc này chịu ảnh hưởng của nhà Tống nên thời này ở Đại Việt, xúc cúc cũng được đa số tầng lớp hoan ngênh, đặc biệt là quân sĩ trong quân.

Bách đưa ra ý kiến:

- Cùng với việc tuyên truyền này, ngài có thể mở một trận đấu xúc cúc đúng ngày 25, lý do chào mừng điềm lành. Ngài sẽ trao phần thưởng cho đội thắng đúng thời điểm hai quầng mặt trời, điều này sẽ càng làm lòng tin tăng lên.

- Quả là cao kiến! Như vậy đi, ta có một đội xúc cúc tên là Chiêu Minh xã, ta sẽ cấp tốc gửi thư cho lão hồ ly Quốc Tuấn, để hắn mang đội An Sinh xã nhà hắn lên kinh. Hôm đấy phải làm thật náo nhiệt, ta cũng muốn nhà hắn chứng kiến thời khắc huy hoàng của cha và huynh ta. Hắn đã mấy lần khích tướng nhưng đội An Sinh xã có hai tên Yết Kiêu và Dã Tượng, thật không sao đấu lại được.

Bách nghe nói thì giật mình, hai danh tướng không ngờ cũng là tuyển thủ xúc cúc nha. Nhưng nghĩ lại thì cũng không lạ, môn này phổ biến trong quân nhân, lại là đua tranh giữa nam nhân với nhau. Yết kiêu và Dã tượng theo truyền thuyết thì toàn kỳ nhân. Hắn đang tưởng tưởng cặp này mà thi đấu với tuyển thủ quốc gia thời hắn có lẽ cũng không vấn đề gì.

Ba người bàn bạc một hồi thì gia nhân cũng dọn cơm. Cơm canh theo lời dặn của Bách cũng chỉ có món cá và một ít cơm. Phần đầu con cá mè có lẽ cũng phải vài kg, bày trong một đĩa lớn. Lúc này, mùi thơm của canh cá quyện với các gia vị cũng kích thích mọi người ngồi vào bàn ăn. Gia nhân múc một bát cho mỗi người, bên cạnh bày một dĩa nước mắm gừng. Trần Quang Khải nếm thử canh, dùng một ít thịt cá rồi thở ra một hơi.
- Món này không tồi, ta tưởng cho thêm vài vị thảo dược thì ăn chỉ để chữa bệnh lá chính, không cầu ngon miệng. Không ngờ cách nấu này đặc sắc, ăn rất vừa miệng. Món canh này người già dùng có tốt không?

- Món này già trẻ đều tốt, nhưng ngày tuổi trẻ thì dùng cá để hầm. Nếu người cao tuổi có thể dùng thịt thay thế. Đều có tác dụng bổ não, tránh đau đầu.

- Vậy thì phải hiến cho phụ hoàng mới được!

Ba người vừa trò truyện vừa say sưa ăn, sau đó mỗi người ăn chút cơm. Đây là cách ăn uống của người Việt, mòn ngon đến đâu sau khi thưởng thức cũng vẫn sẽ dùng một chút cơm trắng với vài quả cà muối. Mọi việc bàn bạc xong xuôi thì Lê Văn Hưu đưa Bách đến cửa, sai gia nhân dẫn hắn về Lê phủ, còn hắn thân là thầy học cũng là quân sư của Trần Quang Khải, phải ở lại để cùng bọn môn khách và gia tướng bàn bạc chuyện cơ mật.

Bách rảnh rỗi thời gian, hắn cũng từ đời sau xác định đại khái vị trí của Lê Phủ nên nói với gia nhân không cần dẫn đường, hắn muốn thăm thú kinh thành phồn hoa của Đại Việt. Bách lững thững từ phía Giảng Võ đi đến chùa Diên Hựu. Chùa này hướng Phật nên nhà Lý xây cất ở phía Tây Hoàng thành. Nếu bây giờ đến thăm chùa Diên Hựu, nhìn nó nhỏ bé như vậy rất nhiều người thất vọng. Tuy nhiên, ít người được biết, đấy chỉ là một quần thể nhỏ đặc sắc nhất của Chùa gọi là Liên hoa đài. Khi nước ta còn Bắc thuộc, vào thời nhà Đường (năm Hàm Thống thứ nhất) một cột đá trên có ngôi lầu ngọc (với tượng Phật Quan Âm ở trong) đã được dựng giữa một hồ nước vuông. Vua Lý Thái Tông thường đến cầu nguyện, khi được hoàng tử nối dõi liền tu sửa lại thành chùa, xây thêm một ngôi chùa bên cạnh cột đá và đặt tên cả quần thể chùa này là Diên Hựu. Tại ao nước này khi khởi công thấy có vô số kim sắt trong ao, người ta cho là chỗ Cao Biền trấn yểm Kinh Thành. Chùa xây xong gọi là hồ Linh Chiểu. Ngoài hồ có hành lang chạm vẽ chạy chung quanh, ngoài hành lang lại đào hồ gọi là hồ Bích Trì, đều bắc cầu vồng để đi qua. Trước sân chùa xây bảo tháp. Bách nhìn tổng thể thì thấy rõ ràng chùa Diên Hựu được thiết kế theo đồ hình mandala mô phỏng một tiểu vũ trụ trong thế giới quan Phật giáo, rất độc đáo.

Lúc này nhằm ngày rằm tháng 3, không khi chùa thật là náo nhiệt. Người đi thắp hương, vãn cảnh như mắc cửi đúng với không khí phật giáo rất tốt của thời Lý-Trần. Bách tham quan một hồi rồi tách khỏi đám đông náo nhiệt, đến bên bờ ao nhỏ, cúi đầu nhìn chăm chú cái bóng của mình ở dưới nước.