Chương 3- Thiên ý

Anh Hùng Vạn Xuân

Chương 3- Thiên ý

Trong phòng chỉ còn Nguyễn Diệu và 4 vách tường. Cậu nằm suy nghĩ sự việc đã xảy ra. Thật là kỳ bí và huyền diệu. Ngược về quá khứ không phải dễ, chuyện đó chỉ xảy ra ở mấy cuốn tiểu thuyết hay trong phim thôi. Tình huống của Nguyễn Diệu e là triệu hay tỷ năm có một. Bây giờ cậu muốn quay về hiện đại sợ khó hơn lên trời.
Xuyên không có nghĩa là Nguyễn Diệu phải xa Duyên, người con gái cậu thương thầm trộm nhớ, xa mái trường, lũ học sinh và sự nghiệp dang dở ở miền núi. Nguyễn Diệu biết đây là thời kỳ hỗn loạn. Con dân nước Việt bị ngàn năm đô hộ phương Bắc. Tuy bây giờ nước Vạn Xuân mới hình thành nhưng sẽ bị tiêu diệt trước sức mạnh hung hãn ngoại xâm. Nếu cậu bị cuốn vào cuộc chiến đó thì khó lòng sống sót. Cuộc sống sau này của cậu ắt có rất nhiều khó khăn, có cả máu và nước mắt.
Mặc kệ là chuyện gì. Nguyễn Diệu lo cho thân cậu là ưu tiên nhất. Bây giờ cậu phải nằm nghỉ để lấy lại sức. Suy nghĩ một hồi tự nhiên cậu thấy khát nước. Thế là cậu lại tới bàn định uống nhưng vừa nhìn hũ nước trong vắt bỗng nghĩ ra một chuyện. Không biết thời này người dân có biết đun sôi để nguội không? Nếu họ không biết thì cậu sẽ chỉ họ. Đồng thời trong đầu cậu lóe lên vài kế hoạch để sống sót thời chiến loạn này.
May mắn là Nguyễn Diệu từng đi bộ đội cũng như sống trong rừng núi. Vì thế cậu biết nhiều bài thuốc nam cũng như phương pháp dân gian hay có khả năng trị một số bệnh cũng như phòng bệnh. Chỉ cần quảng bá một vài kiến thức là đủ không lo miệng không có cái ăn. Còn trong chiến tranh thì Nguyễn Diệu chỉ cách cứu thương. Dân thời này ắt không biết vệ sinh hay khử trùng khi xử lý các vết thương. Cậu từng đọc qua tài liệu kề cập đến việc quân lính chết do đao thương chỉ 3 phần, còn 7 phần còn lại là do vết thương xử lý không đúng, gây nhiễm trùng dẫn đến tử vong. Với kiến thức y tế hiện đại, Nguyễn Diệu có thể trợ giúp quân Nam ta chống cường địch phương Bắc. Chuyện vừa lợi mình giúp nước thì Nguyễn Diệu chắc chắn phải làm.
Nhìn lại hũ nước, Nguyễn Diệu không quan tâm có vệ sinh hay không mà uống nước ừng ực. Dù sao cậu quá khát, phải giải khát trước đã. Mùi vị nước thật tuyệt, Nguyễn Diệu chưa từng uống nước mà có mùi vị đặc biệt thế này. Chắc hẳn do cậu đang khát khô cả cổ họng đây mà.
Vừa uống nước xong thì hình dáng túi ba lô của Duyên rơi vào trong cặp mắt Nguyễn Diệu. Đây là vật đi theo hắn khi xuyên không và cũng là món đồ của Duyên. Người ta thường nói nhìn vật nhớ người. Cậu nhớ người con gái có dáng thân hình mảnh mải, mái tóc đen dài ống ả, và cả nụ cười lộ răng khểnh. Chần chừ một lúc thì cậu mở ba lô ra xem. Rất may Duyên cẩn thận mọi thứ trong ba lô đều gói trong bọc ny long nên không bị ướt hay hư hại gì. Từng cuốn sách, cây viết, thước, và cả phấn đều nguyên vẹn. Nhưng điều làm Nguyễn Diệu vui nhất đó là túi khoai lang.
Nguyễn Diệu mừng không phải đang đói bụng có khoai lang ăn đâu. Nguyên do là những củ khoai này đã được nâng giống cho ra sản lượng cao, chịu hạn, chịu lụt và sâu bệnh tốt hơn nhiều so với củ bình thường. Nếu củ khoai này mà được trồng thì dân làng không lo bữa đói bữa no. Cậu kiểm tra những củ khoai này có thể nẩy mầm không. Thật là may khi Duyên có thói quen mang khoai lang còn sống vô trong trường, khi nghỉ trưa mới đi luộc. Tất cả là củ khoai còn sống. Như thế Nguyễn Diệu đã đem "công nghệ tiên tiến" từ hiện đại ngược về quá khứ rồi.
Nguyễn Diệu vui mừng quên cả cơn đau còn trên người chạy ra ngoài nhờ lão Quang kiếm đất ươm giống trồng khoai. Câu sợ củ để lâu bị hư thì uổng. Vừa ra khỏi phòng thì gặp lão Quang cùng một người phụ nữ cao niên đang chuẩn bị cơm Lão Quang thấy sắc mặt Diệu khá hơn cũng hơi bất ngờ và giới thiệu người bênh cạnh là vợ của lão. Vợ lão dáng người lam lũ nhưng có gương mặt phúc hậu, được dân làng gọi là xưng Lý thị. Sau vài câu chào hỏi, cậu xin vài que gỗ, cốc nước và một ít đất trồng.
Lão Quang tò mò hỏi:
"Cháu cần chúng để làm gì?"
"Cháu đang định trồng những củ khoai này." Nguyễn Diệu vừa giải thích vừa đưa củ khoai cho lão.
Khi lão Quang thấy những cũ khoai vô cùng ngặc nhiên. Vì bề ngoài củ này giống những củ khoai bình thường nhưng nó to hơn. Lão Quang suốt đời làm nông nên biết loại khoai này để không cũng nhảy mầm nên chỉ dẫn Nguyễn Diệu vài điều. Câu biết thời này năng suất nông nghiệp không cao là do kỹ thuật quá kém. Nhờ Nguyễn Diệu sống trên núi phải tự trồng trọt để ăn nên cách trồng khoai "chuẩn" cậu nắm rất rõ. Thế là Nguyễn Diệu đành kể lại các ươm giống và trồng khoai cho lão Quang.
Sau một hồi trình bày của Nguyễn Diệu, lão Quang vẫn nữa tin nữa ngờ. Cách ươm giống hoàn toàn mới. Củ khoai không để nguyên rồi cho tự nhảy mầm mà cắt làm đôi. Ngâm củ khoai vào bát nước sạch, để mặt cắt nhúng trong nước và nước tới một nửa củ. Để cho mặt cắt luôn thấm nước thì dùng những que gỗ là giá đỡ. Sau đó cho củ tiếp xúc ánh sáng trong vài tuần thì sẽ nhảy mầm. Khi mầm dài khoảng nửa gang tay thì ngắt rồi đặt trong bát nước cho đến khi mọc rễ. Tiếp theo trồng những mầm nơi đất tốt, bên trên có giàn. Tiếp tục cho tưới nước và tiếp xúc với thì chúng sẽ bò lên giàn. Tiếp theo là bón phân đầy đủ khoảng 3 tới 5 tháng là có thu hoạch.
Lão Quang sống hơn nữa đời người mới nghe cách trồng vừa lạ lùng vừa mới mẻ như vậy. Theo như lời Nguyễn Diệu thì công việc trồng khoai khá là công phu. Tuy lão không tin lắm nhưng vẫn chiều Diệu. Lão loay hoay một hồi cũng chuẩn bị đầy đủ dụng cụ. Vậy là cảnh tượng hai người một già một trẻ cùng nhau ươm giống. Nếu người ngoài hình vào hẳn nghĩ đây là hai ông cháu. Người cháu thì cao lớn còn ông thì chỉ vừa tầm ngang ngực.
Sau khi cho ngâm củ khoai trong bát nước, Nguyễn Diệu cùng vợ chồng lão Quang chuẩn bị cơm. Nguyễn Diệu cũng rất tò mò người xưa ăn cơm bằng gì. Khi vào bếp nơi để chén đũa, cậu thấy chén bát được làm bằng đất nung như cái bát trồng khoai, đũa muỗng thì được làm bằng tre và gỗ nhưng có có đồ dùng bằng sứ. Cậu tò mò hỏi lão Quang vật liệu sứ thời này. Theo lời kể của lão, sứ là vật đắt tiền chỉ có nhà giàu xài và được xem là vật trang trí trong nhà. Nhà đại phú thì mới sử dụng sứ hằng ngày. Thật không ngờ xứ thời này đắt đỏ như vậy, xưởng gốm sứ thì Nguyễn Diệu thấy trên TV nhưng bí truyền của nhà người ta sao truyền cho người ngoài. Nếu cậu biết vài món nghề làm sứ thì bây giờ cậu là đai phú hào mới nổi rồi. Nhưng cậu chẳng buồn vì cậu tin chắc những giống khoai lang kia đủ giúp cậu nổi danh đất Việt rồi.
Lúc này Diệu thắc mắc về con cháu của lão. Theo lời lão Quang thì lão có 5 đứa con, 3 trai 2 gái. Một đứa con gái lớn chết yểu, gái nhỏ, tên Hương, lấy chồng người trong làng nhưng người chồng bị quân Lương ép vô rừng săn ngà voi bị hổ vồ chết. Khi Lý Bí phất cờ khởi nghĩa, hai đứa con trai đầu lão đều đi lính. Đứa đầu tên Dũng, đứa sau tên Nhân. Con trai cả có vợ và một đứa con chừng 5 tuổi. Người con giữa khá tội nghiệp khi đêm động phòng cũng là đêm chuẩn bị sáng mai khăn gói theo anh ra trận. Đứa út, tên là Nghĩa, tội nghiệp nhất tuy còn nhỏ nhưng nó noi gương hai anh, năm sau nó cũng đi lính. Ba người con ra đi để lại ba mẹ già cùng hai người con dâu và đứa con dõi mắt trông mong. Trong ba đứa thì con trai lớn, dưới trướng lão tướng Phạm Tu, lập nhiều chiến công và được thăng làm Bách phu trưởng, chỉ huy 100 người. Lão Quang đem tin mừng con trai khoe khắp xóm làng. Tin vui chẳng được bao lâu, mấy ngày trước lão nhận tin con trai lão cùng các tướng sĩ dưới trướng Phạm Tu tử chiến ở của sông Tô Lịch. (*) Nói đến đây, hai con mắt của lão ngấn lệ. Còn Lý thị ngoảng mặt vào bếp, đôi vai rung liên hồi. Nguyễn Diệu không biết làm gì, chỉ biết nói lời chia buồn rồi ôm vợ chồng lão vào lòng. Hành động này của Diệu làm đôi vợ chồng rất bất ngờ nhưng họ hiểu cậu đang an ủi và chia sẽ sự mất mát từ người con trai lớn anh dũng. Ba người ôm nhau mặc cho than hồng nổ tí tách.
Đột nhiên Nguyễn Diệu phá vỡ bầu không khí tĩnh lặng:
"Hiện giờ hai người con trai của cụ đang ở đâu?"
"Từ tin mấy ngày trước, toàn quân quân thượng (chỉ Lý Bí) đang chiến đấu tại hồ Điển Triệt. Hai đứa con của vợ chồng lão ắt đang ở đó." Lão lau nước mắt trả lời.
Nguyễn Diệu liền giật bắn người hét, "Không ổn."
Tiếng hét Nguyễn Diệu vang như sấm làm vợ chồng lão Quang hết hồn đồng thanh hỏi, "Chuyện gì không ổn?"
Nguyễn Diệu liền đáp, "Dạ thưa lão Quang, quân Lý Bí sắp thua trận nữa và trận thua này vô cùng thê thảm, toàn quân bị …"
Bốp… bốp… bốp…
Mấy tiếng bom bốp vang khắc nhà tranh. Trong nhà chỉ thấy cảnh người chàng trai cao to và lực lưỡng mà bị hai vợ chồng thi nhau giáng những đòn đánh không thương tiếc. Chàng trai đó là Nguyễn Diệu chỉ biết ôm đầu chịu trận. Sau vài đường quyền của hai vợ chồng thì cũng tạm ngưng có lẽ do tay đau. Hai người đứng thở hổn hển, tay luôn vuốt ngực. Lúc này Diệu mới ta hỏa rằng cậu đã lỡ lời. Hai đứa trai con trai hẳn đang chiến đấu kịch liệt với quân Lương mà Diệu bảo thua thê thảm thì chẳng khác trù ẻo vợ chồng lão Quang sau này tuyệt hậu. Thật là vô tình ác mồm.
"Cháu xin lỗi. Cháu vô ý lỡ lời đã đụng chạm hai anh Nhân Nghĩa. Nhưng cháu chỉ lo lắng cho số phận nước Việt mình thôi." Nguyễn Diệu ríu rít bào chữa.
"Hả? Hai đứa con đúng là do ta đứt ruột 9 tháng 10 ngày mới sinh ra hình hài nhưng việc nước quan trọng hơn hết. Không biết bao nhiêu người mất mạng trong rừng sâu biển độc chỉ vì lòng tham không đáy của bọn quan viên người Hán. Thế hệ chúng ta vùng lên từ đời này sang đời khác chỉ mong có cuộc sống tốt đẹp hơn, không lo bị bắt vô rừng tìm ngà hái linh chi hay lặn xuống biển mò ngọc trai. May mắn lắm có quân thượng đánh đuổi bọn hung ác, nay người nói ngài thua toàn quân. Thật là quá đáng. Nếu mất hết đứa con của ta mà quân thượng đuổi bọn bất lương thêm một lần nữa. Ta vẫn cam lòng," Lý thị cất tiếng dạy bảo. Giọng Lý thị tuy có vài phần trong trẻo nhưng rất nghiêm khắc và kiên quyết. Đây đúng là nữ trung hào kiệt trời Nam.
Lý thị định mắng tiếp thì lão Quang ngăn lại:
"Cậu nói cậu lo nước nhà. Vậy tại sao cậu dám nói quân thượng … nói xui vậy. Cậu có biết trước trận chiến mà nói bậy đó là điềm gỡ không?"
Điềm gỡ đâu chứ. Sử sách về sau ghi rõ ràng. Đó là sự thật nhưng Diệu biết rất khó giải thích cho vợ chồng lão. Suy nghĩ một hồi cậu chỉ tay lên trời phát biểu:
"Đó là thiên ý."




(*) Trần Bá Tiên đem quân đánh Vạn Xuân. Lí Bí liên tiếp thua mất Hợp Phố, Chu Diên. Lí Bí chạy xuống cửa sông Tô Lịch. Các tướng Tinh Thiều, Phạm Tu cố thủ chỉ vài tháng rồi hy sinh vì nước.