Chương 75: Chiến tranh Chiêm Thành- Chân Lạp (2)
.
.
Quyển II: Anh Hào Tụ Hội
Món lợi về nhân lực mà quân Hồng Bàng kiếm được nghe thì có vẻ to, nhưng do nguồn tiền tương đối hạn chế, thành ra cũng chỉ nhập được tối đa 8000 người, trong đó đa phần là nông nô, thợ thuyền hoặc công nhân khai mỏ, chứ còn lính tráng mới chỉ có thêm chừng 500 người. Việc có thêm một lượng dân cư tuy rằng cũng phần nào giúp tăng năng lực sản xuất, cũng khiến quân Hồng Bàng gia tăng thêm cmột phần binh lực nhưng chúng là không đủ.
Địa bàn quân Hồng Bàng có được quá nhỏ hẹp, ít khoáng sản tài nguyên, dựa theo tính toán mà các Bộ: Tài Nguyên- Môi Trường, Công Nghiệp, Lao Động- Thương Binh- Xã Hội, Tài Chính và Quốc Phòng thì quân Hồng Bàng đang đứng trước nguy cơ thiếu nhiên- nguyên vật liệu cho ngành công nghiệp nặng: luyện kim. Luyện kim, bất kể luyện kim đen hay luyện kim màu, trước tiên đều cần một nguồn nhập ổn định các loại quặng mỏ kim loại và chất đốt. Các mỏ quặng quá ít ỏi ở trên Thượng Khu làm nguồn quặng bị hạn chế cực kì, còn việc nhập khẩu thì giá quá cao, thời gian vận chuyển tới Hồng Bàng lâu, chất lượng lắưm khi không đảm bảo. Về chất đốt, chưa nói tới việc chế tạo được than cốc hay thân mỡ gì đó theo quy mô công nghiệp, chỉ riêng về than thôi, thì quân Hồng Bàng cũng không có nhiều, nguyên liệu chủ yếu họ dùng chỉ là củi- hiệu suất tỏao nhiệt cực kì kém.
Sự yếu kém về công nghiệp luyện kim dẫn theo sự phát triển không bền vững, nhất là ở mảng quốc phòng: vũ khí nhập khẩu nhiều hơn vũ khí tự sản xuất, phụ thuộc nhiều vào thương gia mà trước hết là họ Bùi, giá cả dễ tăng vọt mà hàng vẫn khan hiếm, chất lượng khó đảm bảo. Vũ khí là một yếu tố đống vai trò quan trọng trong chiến đấu, quyết định một phần không nhỏ vào thắng lợi. Trong lịch sử Việt Nam cận đại, Trận Điên Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu tuy rằng do Việt Nam thực hiện, nhưng vai trò của những món hàng viện trợ từ Trung Quốc là không thể bỏ qua, nhất là về pháo binh. Để cho dễ so sánh thì cùng đánh vào một khu vực có khả năng phòng ngự co cụm cao- chiến thuật phòng ngự " Con Nhím", mà Nà Sản không nhiều cứ điểm phòng ngự, sự tập trung pháo binh, không quân chi viện cũng như quân số có phần kém hơn Điện Biên Phủ, thì quân đội nhân dân Việt Nam lại phải rút lui ở Nà Sản, trong khi chiến thắng ở Điện Biên.
Điều này xảy ra là 3 vì yếu tố chính: quân đội Việt Nam khi đánh Nà Sản thiếu hỏa lực mạnh để chế át pháo binh địch, khi mà lúc đó hỏa lực quân đội nhân dân Việt Nam mạnh nhất chỉ có sơn pháo, cối và DKZ, kém về uy lực đã đành, lại không bằng được về số lượng. Hai là thiếu lực lượng cao xạ chống lại không lực Pháp, nên buộc phải đánh đêm, trong khi lúc đó quân đội ta chưa hề có kinh nghiệm nên trinh sát kém, không biết được bố phòng và chướng ngại vật địch bày ra, quân đội hầu như bị ùn tắc ở cửa mở- nơi phơi mình trong hỏa lực của Pháp. Thứ ba là yếu tố hậu cần không đảm bảo.
Ngược lại ở Điện Biên Phủ, 3 yếu tố trên hoàn toàn đảo ngược về phía Việt Minh: Hỏa lực của các loại pháo, nhất là pháo 105 ly được Trung Quốc viện trợ đã khiến quân đội Việt Nam có được ưu thế tốt khi vừa đánh được vào ban ngày, pháo binh mạnh át chế được pháo binh đối phương để bộ đội tiến sâu mà ít thương vong; không lực đối phương không thể giúp đỡ nhiều trong việc đánh phá hay tiếp tế khi phải đối mặt cao xạ 37 ly- cũng là Trung Quốc viện trợ. Yếu tố hậu cần là yếu tố hoàn toàn không nhờ tới Trung Quốc, khi mà chính phủ Việt Minh đã hoàn toàn dùng được toàn thể sức mạnh của dân tộc Việt Nam để đưa lên Điện Biên một lượng quân nhu khổng lồ: 4200 tấn gạo, 100 tấn rau, 100 tấn thịt, 80 tấn muối, 12 tấn đường,…
Bằng việc so sánh hai trận Điện Biên Phủ và Nà Sản, ta không thể không nhận thấy rằng nếu không có vũ khí tốt, khả năng chiến thắng tuy không phải không thể có nhưng hi sinh về nhân lực sẽ là quá lớn. Cũng như Việt Minh khi đánh Pháp, quân Hồng Bàng không thể chịu hi sinh nhân lực lớn quá được, nên họ phải đầu tư vào vũ khí, mà muốn đầu tư vào vũ khí thì họ phải làm tốt ngành luyện kim. Muốn làm tốt ngành công nghiệp luyện kim thì phải tìm ra mỏ sắt và nguồn nhiên liệu. Và những thứ đó thì đang ở Chiêm Thành.
Trong lần đi Chiêm Thành lần trước, đúng hơn là đi tới cảng Larati của tiểu quốc Laja, Kiệt biết rằng ở đó có một số mỏ sắt tốt, trữ lượng tuy không nhiều nhưng so với Hồng Bàng thì cũng không khác gì là rách với là tả tơi. Về phần nhiên liệu đốt, ở đây có một mỏ than đá, trữ lượng bao nhiêu thì Kiệt không nắm chắc, nhưng việc khai thác ở đây rất hạn chế yếu tố kỹ thuật, nên khả năng trữ lượng còn lại rất cao. Nếu có được vùng đất này, quân Hồng Bàng sẽ có thể khuếch trương sức mạnh lên rất nhiều lần khi mà hoàn toàn phát triển được công nghiệp luyện kim. Đồng thời, với một vùng đất như Chiêm Thành, việc công nghiệp hóa hiện đại hóa sẽ mang theo biết bao lợi nhuận mà Hoàng Anh Kiệt chỉ nghĩ thôi cũng phát sợ.
Vậy Hoàng Anh Kiệt sẽ dùng cách nào để có được thứ mà mình muốn. Tất nhiên là phải dùng chiến tranh trong lúc này rồi, Hồng Bàng không phải là đại quốc khiến Chiêm Thành nói chung và Laja nói riêng phải kiêng dè tới mức nhượng cho cậu ta một phần đất đai có tài nguyên phong phú như vậy. Hai là cậu không có công chúa Huyền Trân (công chúa Huyền Trân nhà Trần lấy vua Chế Mân, đổi lại Chế Mân đưa hai Châu Ô, Rí làm quà cưới). Thời điểm này là lúc mà quân Chiêm Thành gặp nhiều khó khăn, họ yếu đi rất nhiều do cuộc tấn công của Chân Lạp. Trong khi đó, quân Hồng Bàng nhờ vào việc đòn kinh tế đã làm đối thủ của họ tạm thời không thể gây chiến: Lee Dea Si tạm án binh bất động, Trần Khảng căng mình đấu Thái Chí Phú và Phú Tăng An và quân Hồng Bàng đã kiểm soát tốt khu vực của mình.
Tất nhiên, Hoàng Anh Kiệt không thể dùng quân chính quy Hồng Bàng, bất kể là lực lượng Chính Binh hay Thượng Binh, vì nếu điều những đạo quân chủ lực đó đi chinh chiến, thì Trần Khảng và Lee Dea Si sẽ không bao giờ bỏ cho đánh quân Hồng Bàng. Ngoài ra hai lực lượng này sẽ rất khó phải chấp nhận tham gia một cuộc chiến mới mà không phải là để tự vệ, sau nhưng mất mát, đau thương của cuộc chiến với quân Nam Bình trước đây. Già néo đứt dây, Kiệt không muốn vậy.
Thế Kiệt sẽ dùng lực lượng nào cho trận chiến này. Cậu ta sẽ dùng Chiêm Binh- đội quân được lập ra bằng các tù binh người Chiêm bị bắt trong cuộc chiến với Chiêm Thành khi quân Hồng Bàng khởi sự. Những người này sau đó đã trở thành phu mỏ, lao động công ích ở vùng Thượng Khu, giúp Hồng Bàng phát triển cơ sở kinh tế. Sau khi mãn thời hạn chịu án phạt tù bình chiến tranh, Kiệt đã bắt đầu tổ chức một bộ phận tù binh thành quân đội, và các lực lượng này nằm dưới sự kiểm tra giám sát từ các Chính Ủy (chính trị ủy viên) người Việt, chỉ huy người Chiêm ở hai cấp tiểu đội, trung đội và sẽ có thêm một cán bộ tham mưu(tất nhiên lúc này hầu hết đều là người Việt) nếu từ cấp Đại Đội trở lên, nhằm đảm bảo sự chỉ huy tốt nhưng vẫn giữ được lòng trung thành với Hồng Bàng.
Cộng thêm một lượng lính nhỏ đã chiêu mộ được vừa quan, đạo lính người Chiêm hiện có tổng cộng là 2500 quân, tức là tương đương hai tiểu đoàn đủ. Tuy rằng đây chỉ là một đạo quân nhỏ, nhưng hiện tại đó là những gì tốt nhất Kiệt có thể tung ra.
Sau khi đã tiếp xúc với quân Chân Lạp, Hoàng Anh Kiệt nhận ra rằng hiện quân Chân Lạp cũng đang muốn sớm kết thúc chiến tranh do tiêu hao, vì vậy khi Hoàng Anh Kiệt đề nghị góp sức, đánh tập hậu khiến quân Chiêm buộc phải sớm hoang mang, nhanh chóng đầu hàng.