Chương 81: Trang viên Cát Tường
Thuyền cập ở bến Liêu Châu, những người đi trước đã đi vào trang viên. Bách lên thuyền, nhìn ngắm khung cảnh một hồi. "Đây sẽ là nơi ta lập nghiệp, ta sẽ biến nơi đây thành xóm làng trù phú. Khiến ngàn hộ dân trong thực ấp được no đủ". Hắn đi về phía Tây độ năm dặm thì thấy có đoàn người phía trước. Đoàn người độ hơn trăm người, tập trung có nam phụ lão ấu, Đinh lão cũng ở trong đấy. Thấy Bách thì đồng thanh:
- Kính chào Hầu Gia!
Bách chắp tay chào mọi người. Một lão nông tóc bạc phơ phơ nói:
- Lão là bô lão vùng này tên là Phạm Hùng, xin được ra mắt Hầu gia.
- Lão Phạm và mọi người không cần đa lễ. Cứ vào trang viên rồi nói.
- Xin mời hầu gia.
Đoàn người khép nép tách ra một lối đi. Đi thêm một lúc thì thấy hiện ra một kiến trúc, đây gọi là nhà thì quá to, gọi là phủ thì hơi bé. Chỉ là cũng vừa được sửa sang lại nên nhìn có vẻ rất đẹp. Trước cửa lớn đề bốn chữ "Trang viên Cát Tường".
Nhà chính Trang viên xây năm gian, hai trái, trước có sân rộng, cau trầu trồng rất đẹp, xa hơn nữa có có ao cá lớn, bên cạnh là giếng nước, phía sau là vườn cây. Nhà cột làm bằng gỗ tốt, tường làm bằng đá ong, đây là đặc sản cúa xứ này. Đá ong là loại vật liệu có cấu tạo mềm, xốp, lỗ chỗ như tổ ong nằm dưới đất. Loại vật liệu này là một trong số ít vật liệu có khả năng điều hòa nhiệt độ. Khi vào hè, dù nhiệt độ ngoài trời có tăng cao thì lượng nhiệt đá ong hấp thụ cũng không đáng kể nên không gian trong nhà luôn mát mẻ. Khi đông đến, nhiệt độ có hạ thấp thì đá ong cũng giúp hình thành lớp đệm cản trở khí lạnh. Thời của Bách đá ong đã trở thành vật liệu cao cấp, hắn sao dám nghĩ sẽ có lúc mình được sở hữu ngôi nhà đá ong đẹp thế này.
Bách vào nhà, chào hỏi bô lão và các nông hộ rồi lấy từ trong kho ra trăm bộ lưỡi cày, lại thêm cuốc, xẻng phát cho các nông hộ. Những thứ này hắn đã chuẩn bị từ khi trên mỏ về. Vận chuyển đến đây hôm trước rồi cất ở kho. Nông hộ vui mừng cảm ơn Hầu gia rồi rít.
Hắn lại tập trung 100 quân trạo nhi lại. Bọn này đang ở với nhau, tham gia khải khẩn, cày cấy. Lần đầu gặp hầu gia, cũng thấy người này còn nhỏ tuổi, không biết có nên cơm cháo gì không? Đến khi hắn tuyên bố đám quân Trạo Nhi này từ nay không làm ruộng nữa, chuyển sang làm thợ khiến cả đám tròn mắt.
Ba mươi công nhân công bộ đi theo hắn, cứ ba người hướng dẫn một người, trong ba tháng phải học sơ qua hai nghề cơ bản. Một nhóm học nghề mộc, một nhóm học nghề rèn sắt. Còn một nhóm hắn tuyển ra những đứa lanh lợi hơn, đích thân dạy chúng kiến thức trồng trọt, chăn nuôi, đây sẽ là những cán bộ khuyến nông đầu tiên của Đại Việt.
Hắn sẽ biến nơi đây thành một cụm làng nghề. Không thể chỉ sống dựa vào trồng lương thực được. Hắn biết nếu có đủ công cụ, sẽ giải phóng kha khá sức lao động, một người có thể chăm lo cho cả hec-ta lúa. Những lúc thời vụ mới cần đông ngươi thôi. Vậy những lúc nông nhàn thì không thể để rong chơi được.
Vùng dưới núi Ba Vì, hắn biết sau này có thể hình thành được vùng chăn nuôi. Nơi đây được đặt nhiều cơ quan nghiên cứu chăn nuôi trâu bò, dê, thỏ của cả miền Bắc. Hơn nữa tại một số vị trí có thể hình thành vùng đồng cỏ lớn, đảm bảo được nhu cầu thức ăn của vật nuôi.
Tối đó, Bách mở tiệc lớn ở trang viên, mời bô lão trong vùng. Hai vợ chồng Nhật Duy thấy trang viên của hắn đơn sơ, cũng có ý muốn giúp. Nhưng hắn nói chưa cần, thực ra đơn sơ là do cái nhìn thôi, với hắn có đất đai, có nhân lực đã là tốt lắm rồi.
Hôm sau hắn bắt đầu đi thăm thú quanh trang viên. Các nông hộ ở rải rác quanh một khu vực rất rộng, nhưng chủ yếu vẫn bám theo triền sông. Những con sống chính là mạch nguồn của văn minh lúa nước. Không có hệ thống kênh mương dẫn nước thì không thể canh tác lúa được.
Lúc này đã lúa cũng đã trỗ bông, không còn cái màu xanh mướt mắt nữa. Hắn gọi những bô lão trong vùng ra, lưu ý họ một vài kỹ thuật canh nông, sang năm hắn sẽ cho một vài tá điền của trang hộ Đinh gia lên đây cầm tay chỉ việc. Người nông dân nói với nhau sẽ dễ tiếp thu hơn. Nếu nghe hắn nói trang hộ dù kính sợ nhưng trong lòng không tin đâu.
Loanh quanh nửa ngày cũng nhận ra nhiều vấn đề. Người dân thời này phụ thuộc nhiều vào lúa nước quá, những chân đất cao hầu như không canh tác được, rất lãng phí. Hắn còn có cây ngô và vài loại cây cao sản khác để trên Đinh gia, lần này phải lấy xuống một ít.
Củ khoai tây hắn cất như của báu cũng đã nảy mầm, hắn đã cho trồng vào một cái chum lớn. Chăm bẵm như con mọn, lần này sẽ cho trồng tất cả ra đây. Muốn chăn nuôi được thì phải có giống và đồng cỏ. Đồng cỏ có thể trồng được nhưng giống gia súc hiện nay là vấn đề lớn.
Ba Vì nổi tiếng với giống bò vàng bản địa của Việt Nam. Nhưng giống bò này được đánh giá là nuôi chỉ tổ phí cơm, tuy thích nghi tốt nhưng quá bé, mình lép, mông lép, ngực lép, trán lõm... tỷ lệ thịt chỉ 50%. Nặng chỉ tầm 200 kg. Nhưng thời này lấy đâu ra bò ngoại. Những năm 73 Chủ tịch Cuba mới tặng cho Việt Nam những con bò ngoại đầu tiên, đánh dấu quá trình phát triển của ngành chăn nuôi gia súc ở nước ta. Thôi đành bắt giống bò Thanh Hoá, trong tất cả các loại bò vàng thì nó là ưu việt nhất, trọng lượng tầm 400 kg. Những loại khác thì nuôi càng nhiều, sẽ càng không hiệu quả.
Về lợn thì hắn chỉ biết sơ sơ, muốn nuôi lợn thì phải đi kèm với năng lực sản xuất lương thực tăng lên. Người không đủ ăn thì nuôi làm sao được lợn. Nuôi mấy con lợn ỉ và đàn gà mía là được, chờ khi cây ngô, cây khoai, cây đậu mọc đầy đất. Chắc chắn tự nhiên gà lợn sẽ nhiều lên thôi.
Bách tập trung ba mươi thanh niên có vẻ sáng sủa nhất. Bắt đầu lên lớp những thứ cơ bản nhất về nông nghiệp. Bọn này thấy Hầu gia trực tiếp dạy chúng. Lại làm một cái tường đá ong, mài nhẵn, bắt bọn chúng lấy nõn chuối đánh nhọ nồi cho bức tường đen kịt. Lấy một viên màu trắng, viết lên tường thì phục lắm. Đứa nào cũng xin một viên. Thứ phấn này là Bách sai mấy tay thợ công bộ làm ra. Nung từ vôi bột và thạch cao. Không tốt bằng phấn thời sau, khi viết bột phấn tán loạn nhưng cũng đủ dùng.
Việc dạy học với hắn là nghề nghiệp, thuận lý thành chương mà làm thôi. Lại nói ngành nông nghiệp là ngành đặc thù, chuyên tiếp xúc với nông dân. Việc truyền đạt kiến thức cho người nông dân khác hẳn với dạy cho học sinh.
Đa số nông dân là người lớn tuổi, lại đã có sơ sơ kinh nghiệm sản xuất. Muốn họ làm theo những gì mình hướng dẫn, cần phải có phương pháp chứ không thể áp đặt. Khi xưa hắn học đúng ngành này nên có kinh nghiệm truyền đạt hơn người khác. Hắn dạy bọn chúng đầu tiên là kiến thức tự nhiên về cây trồng. Luôn lấy ví dụ và sự so sánh làm đầu. Chỉ một lúc là bọn chúng nghe như si như say.
- Tại sao có câu "Chiêm cập cợi, mùa đợi nhau" các ngươi có biết không?
- Thưa hầu gia, vì lúa Chiêm chín không đồng loạt, trên cánh đồng chỗ đã chín, chỗ lúa còn xanh. Còn lúa mùa luôn chín cùng nhau, không bao giờ sai lệch.
- Đúng thế! Lúa chiêm là loại giống lúa đặc biệt, cứ tích luỹ đủ nhiệt độ là sẽ trỗ bông và chín. Chính vì thế nếu các ngươi cấy sớm nó sẽ trỗ sớm, cấy muộn nó sẽ trỗ muộn. Còn lúa mùa thì hoàn toàn khác, nó cảm ứng với ánh sáng, cứ đến tiết Hàn Lộ sẽ trỗ bông, bất biết các ngươi trồng lúc nào.
- Hầu gia nói thật chứ? Vậy chúng ta sao không trồng lúa mùa muộn, chẳng phải vẫn được thu sao?
- Ngu ngốc, việc trỗ và chín đâu liên quan đến việc được thu. Nếu các ngươi trồng quá muộn, đến tiết Hàn Lộ, cây không kịp sinh trưởng, trỗ bông nhưng bông lúa lép hết.
Mọi người cười rộ!
- Ta nói điều này để lưu ý các ngươi về thời vụ. Mỗi giống lúa có một thời gian sinh trưởng lý tưởng, các giống cũ của chúng ta trồng có thể từ 150 – 180 ngày. Các ngươi khi canh tác cần lưu ý. Lúa Chiêm thì trừ lùi từ ngày thu đi khoảng đấy thời gian mà tính ngày gieo và cấy. Còn lúa mùa cứ đơn giản trừ từ tiết Hàn Lộ là sẽ ra được ngày cấy.
- Nhưng ta đang có một giống lúa mới, có thể trồng được cả hai vụ, thời gian ngắn hơn chỉ 120 – 130 ngày. Lại có năng suất cao hơn nhiều giống lúa cũ. Sang năm sẽ đem về đây một ít.
Tất cả xôn xao, nhưng lại có một đứa, mặt mày sáng sủa, chừng 18 – 20 đứng lên.
- Nhưng thưa Hầu gia, nông lịch được triều đình đưa xuống, thường rất chậm trễ. Nhiều khi không chủ động được mùa vụ. Theo lời hầu gia nói thì thời vụ quan trọng, nhưng nếu ngay cả ngày tháng cũng không biết thì làm sao đây.
- Hỏi hay lắm! ngươi tên gì?
- Tiểu nhân tên là A Quý.
- Tốt lắm A Quý, ngươi nói đúng trọng tâm. Đại Việt chúng ta bao đời nay canh tác đình trệ, không phát triển được vì thiếu nhiều kiến thức cơ bản mà chỉ dựa vào kinh nghiệm. Một trong những kiến thức cơ bản thiếu nhất chính là cách tính toán lịch pháp dựa theo thiên văn.
- Cái này ta không thể dạy các ngươi một cách chi tiết được vì liên quan nhiều đến toán học. Nhưng các ngươi hiểu nôm na là một năm sẽ có 365 và ¼ ngày, chính vì vậy cứ 4 năm chúng ta phải bù vào một ngày cho đủ số. Số ngày này chia ra thành 24 tiết khí trong năm, mỗi tiết khí khoảng từ 14 – 16 ngày. Ta chắc chắn rằng từ nay lịch pháp sẽ được công khai, các ngươi chỉ cần nhớ tiết khí nào làm việc gì là được. Rõ chưa A Quý.
- Đã rõ thưa Hầu gia. Nếu được thế thì chúng tiểu nhân cam đoan trồng cấy đúng thời vụ.
- Ta dạy các ngươi bài thơ, nhớ cho kỹ.
Đoạn hắn chắp tay ra sau, tỏ vẻ cao nhân ngâm:
- "Lập xuân, Vũ thủy bâng khuâng
Chợt Kinh trập suốt, Xuân phân phai tàn
Thanh minh, Cốc vũ cho toan
Vấn vương Lập hạ bẽ bàng vơi nay
Véo von Tiểu mãn xem hay
Phân Mang chủng thoắt đâu đây vội vàng
Còn nguyên Hạ chí chả càng
Xưa nay Tiểu thử nhỡ nhàng tươm ngay
Lập thu, Đại thử ngất ngây
Bây giờ Xử thử có đầy đặn an
Thu phân, Bạch lộ bàng hoàng
Gã hành khất lạnh ngắt Hàn lộ xoay
Chùi Sương giáng phải lung lay
Lập đông ôi vực thẳm vây quanh xoàng
Dang bang Tiểu tuyết tan hoang
Lỡ làng Đại tuyết mịn màng khéo thay
Mong Đông chí, Tiểu hàn này
Đại hàn tình sáng ngời đây thoáng nồng
Tháng hai thay đổi mỗi không
Một chênh lệch tối đa bồng hoặc hai
Hai mươi mốt nửa trong phai
Hai mươi ba nửa cuối ngoài năm trong".