Chương 115 - Quần Đảo Trắng (3)
Tiếng nổ vừa rồi, làm cho đám hải tặc xung quanh cứ nghỉ là hiệu lệnh tấn công, đồng loạt xong lên, giương bườm về phía quân Việt. Mặc dù kế sách trước đó là lập đội hình chờ quân Việt đến gần mới khai hoả xem như đã phá sản. Flamable lắc đầu ngao ngán, xem như dàn phối hôi này là những kẻ ngu ngốc đã chết một dạng. Hắn bắt đầu ra lệnh cho hải quân phe mình bắt đầu tư chỉnh quân trang, chuẩn bị chiến đấu.
Thông qua từ ống nhòm nhìn xa, lúc này Trần Quốc Tuấn đã thấy đội hình quân địch bát nhát, nổi pháo bắn loạn xạ, từng chiếc thuyền cũ kỹ có phần chấp vá của đám hải tặc lao về phía trước tốc độ nhanh nhất có thể.
Chẳng hề kiêng dè hay một chút sợ sệt gì, dường như những chiếc tàu trước mắt của quân Việt như một thiếu nữ mời gọi đã lột sạch nội y. Ánh mắt thèm thuồng, tài lộc trước mắt, chỉ cần lao lên cận chiến, thoả sức chém giết là có thể chiếm được tàu, rồi lại tái trang bị cho chính bản thân mình sử dụng.
Một đường cong tiếu dung trên gương mặt lộ ra, Trần Quốc Tuấn nhìn sang Lê Phụng Hiểu, nhận được sự gật đầu đồng ý. Nghĩa là cuộc tấn công chiến dịch quân sự đặc biệt thâu tóm Quần Đảo Trắng chính thức được bắt đầu.
Trần Quốc Tuấn ra hiệu cho các phái thủ từ tàu Định Quốc cấp hai và ba mở màng bằng loạt đạn pháo 105ly đến 130ly. Với tầm bắn trên mười cây số, thì đám tàu lúc nhúc lao lên như bày ông vỡ tổ vô lối chiến thuật thì chẳng khác nào làm bia tập bắn.
Tiếng Ầm Đùng đinh tai nhức óc vang lên, sau đó là từng đường cong mỹ miều của những quả đạn hình cầu lồi lõm bay vút lên không trung, tạo ra một tiếng rít xé gió lạnh buốt sống lưng. Cuối cùng là găm thẳng vào mạn tàu và sàn tàu. Đám thổ phỉ, hải tặc chưa hết trố mắt ngạc nhiên vì tầm bắn xa của quân Việt, lại tỏ ra vẻ cười cợt vì hậu quả chỉ là những cục sắt đang chi chít ở các nơi mà thôi. Nhưng niềm vui chỉ mới chưa quá ba giây, cơn ác mộng khủng khiếp ập đến bọn hải tặc.
Vì kết cấu loại tàu của bọn hải tặc, hay nói đúng hơn là tất cả các loại tàu trên thế giới hiện tại điều là loại thuyền buồm với một hoặc nhiều cột buồm tùy theo kích cỡ và quy mô. Vì vậy, ác mộng từ đó mà xảy ra. Nếu như đối với các loại thuyền được đóng bằng các loại gỗ cứng, mặc dù bị tấn công bởi đại pháo đạn đặc cùng kích cỡ, với quy mô hàng trăm tấn, và số lượng thủy thủ đoàn một đến hai trăm người thì cũng có thể sống sót.
Nhưng đối mặt với tàu của quân Việt là hàng trăm chiếc tàu lích nhích chấp vá, trọng tải chưa đến trăm tấn, vũ khí cũng chỉ cao lắm mười khẩu cho mỗi bên mạn tàu. Nếu có thể so sánh như quân đội áo rách cái bang mà đi so sánh với trang bị giáp trụ của hiệp sĩ. Loại nào thiệt hơn có thể nghĩ. Sau loại đạn pháo đầu ba giây hàng trăm tiếng nổ vang lên từ mạn tàu và sườn tàu của bọn hải tặc, là đến lượt đạn pháo thứ hai cũng đến. Một cảnh tượng hết sức hùng vĩ và tráng lệ được vẽ ra.
Mặc dù cách xa khu vực nã pháo đến hơn mười dặm biển nhưng quân Việt vẫn có thể nghe và thấy được từng tiếng nổ long trời lở đất, bọt biển văng lên tung toé khắp nơi, khói lửa và tiếng cót két gẫy đổ cột buồm ngã xuống rồi va đập vào nhau. Tiếng kêu la thảm thiết của những tên hải tặc xấu số ham lợi mà bỏ mạng, chôn vùi thân thể dưới lòng biển lạnh giá. Chỉ sao năm loạt bắn từ các tháp pháo của tàu định quốc.
Một tiểu đội mười lăm tàu khu trục Mông Đồng dưới sự trợ uy từ hai tàu Chiến Hạm Định Quốc cấp ba tiến lên chiến trường vừa mới nã pháo. Sau mười phút tiến lên cẩn thận, quân Việt mới bắt đầu nhìn thấy chiến trường vừa nãy. Hàng trăm xác tàu hải tặc bị đánh nổ tan xác, cột buồm thanh xà cốt thuyền mãnh gỗ trôi nổi khắp nơi. Xác người nổi lềnh bềnh trên mặt biển cùng với đó là những chiếc tàu bị gãy đôi, có những chiếc bị thủng nhiều lỗ từ bên mạng tàu mà ngã nghiêng rồi chìm dần xuống đáy biển trong khi ngọn lửa cùng với vết dầu hoả loang lổ bốc cháy khét lẹt tạo nên một mùi chết chóc nồng nặc xông thẳng vào mũi.
Tiếng cót két của những chiếc tàu bị gãy, mãnh gỗ va đập vào mạn thuyền của những chiếc Khu Trục Mông Đồng. Mặc dù được huấn luyện rất kỹ càng, nhưng đa phần những binh lính của Đại Việt điều là những tân binh, mang tiếng tinh nhuệ nhưng chưa thấy máu lần nào. Cảnh tượng huyết tanh nhuộm đỏ cả vùng biển, đầu lâu xác người, tứ chi nội tạng trôi nổi khắp nơi.
Những gương mặt dữ tợn bây giờ đã chết đi, kết hợp với việc ngắm nước trương phình lên như những quả bong bóng căng tròn, gương mặt trắng xanh, tròng mắt trợn ngược thành một màu trắng dã, đủ làm doạ sợ và gây ám ảnh nhất đối với những người lần đầu tiên nhìn thấy, sợ thì không, nhưng hãi thì lại có.
Người Việt từ xưa đã quen với việc bơi lội, giỏi săn bắn. Hơn nữa Trần Quốc Tuấn lại là người nắm vững Thủy Quân, xuất thân từ gia tộc làm nghề đánh cá kéo chài thì quân lính dưới trướng, không giống cá cũng ít nhất giống tôm. Nhưng mà tâm lý của tân binh mặc dù trung thành tuyệt đối, nhưng mà cảnh tượng trước mắt không ngăn được cơn trào ngược dạ dày, liên tiếp là tiếng oẹ huệ vang lên.
Đối ngược với binh lính Hải Quân Đại Việt mặc dù có khó lòng kiềm chế được cơn trào ngược, nhưng sức mạnh từ vũ khí của những chiếc tàu đó lại hết sức kinh khủng. Tàu chiến hải quân Liên Bang Lizard cũng làm từ gỗ, và đối mặt với thứ vũ khí kia, không khác nào lấy trứng mà chọi với đá.
Nói không quá là va phải cây thiết bản, Flamable không hổ danh là tướng chỉ huy Liên Bang. Lập tức ra lệnh toàn bộ hải quân rút về đảo, thiết lập vành đai phòng thủ. Ngoan cố chống chọi với đám người điên này, không khéo sớm cũng sẽ gặp tử thần. Nếu so với vũ khí công nghệ, Tộc Lizard có thể sẽ thua thiệt quân Việt. Nhưng nếu so sánh về sức chiến đấu cận chiến, thì Quân Lực Liên Bang tuyên bố không có đối thủ.
Flamable tự tin vào quyết định này của mình, cho toàn bộ Hải Quân rút vào pháo đài. Nhờ vào các công sự và lô cốt cùng với đó là áp đảo về số lượng quân số chắc chắn sẽ đánh bại quân Việt. Flamable tính toán, một đội quân viễn chinh thì cần nhất đó là chiến thắng nhanh chóng, thiết lâph công sự phòng thủ, ổn định vấn đề hậu cần.
Bởi hậu cần là thứ vô cùng thiết yếu cho một đội quân, nếu như hắn có thể cầm chừng hai đến ba tháng mà không thất bại, chắc chắn quân Việt sẽ tự động lui quân vì cạn kiệt lương thực. Điều này là một quyết định chính xác, quân Việt không thể nào vận tải cả trăm tấn lương thực để nuôi một đội quân liên tục trên biển được. Nhưng mà cái điều sai lầm của Flamable đó chính là, quân Việt có thể mang thực phẩm gọn nhẹ, như là thực phẩm đóng hợp, lương khô. Thứ mà bọn chủng tộc ưa thích ăn thịt tươi sống như các chủng loài Thú Nhân, Thằn Lằn hay thậm chó là Ork điều không thể mường tượng được.
Hàng trăm chiếc tàu được vứt lại trên bờ biển, toàn bộ quân đội rút lui chiến thuật vào trong pháo đài trên Đảo Trắng cố thủ. Lê Phụng Hiểu cũng chẳng thể ngờ, chỉ với mấy loạt đoạn đầu tiên, đã đánh tan ý chí chiến đấu của quân đội trên Đảo, khiến bọn này phải rút lui cố thủ dựa vào pháo đài kiên cố trên Đảo Trắng.
Mục tiêu trước mắt chính là ổn định quân đội. Đảo Trắng nằm trong một quần thể Quần Đảo, vì là nơi có diện tích lớn nhất, cho nên Flamable tự tin vào vị trí chiến lược của nó, mà đã tập trung vào công tác xây dựng pháo đài, đến nổi những công trình trên những hòn đảo xung quanh phá dỡ để lấy vật liệu cho việc xây dựng công sự. Những hòn đảo xunh quanh tất cả dường như đã bỏ trống, chỏ là hòn đảo trơ trọi hoang tàn, không có người sinh sống.
Sao vài ngày điều tra, Đào Duy Từ đã phát hiện ra yếu điểm chết người này của tên Flamable, là hắn quá mức tự tin vào pháo đài, mà bỏ qua những khu vực xung quanh. Điều này lại chính là một lợi thế, Đào Duy Từ nổi lên một ý nghĩa thiết lập vàng đai cô lập Đảo Trắng, kẻ địch đã muốn ta tấn công vào, ta làm gì phải nghe theo chúng. Binh thư có ghi, biết địch thủ mà công là dỡ, địch biết quân ta công nhưng không thể thủ, như thế mới là hay. Mặc dù yêu cầu là phải đánh nhanh, nhưng kẻ địch tự chui vào trong mai rùa, vậy thì chỉ còn cách, gỡ từng lớp phòng thủ, cho đến lớp cuối cùng, hoặc tấn công vũ bão vào trong thành phố.
Nếu là tấn công vào thành phố, con số thương vong sẽ là rất cao, lại nói đến việc nã pháo vào pháo đài, nô lệ con người sẽ thương vong vô số. Mục tiêu chính là giải giáp quân lực đối địch trên Quần Đảo Trắng, giải phóng con người, tiếp quản nguồn tài nguyên khoáng sản, người còn thì mới có thể khai thác và làm việc. Đây là ý lệnh của Huỳnh Minh nên Đào Duy Từ sẽ không làm trái.