Chương 3: Rèn kiếm

Trở Về Thời Bắc Thuộc

Chương 3: Rèn kiếm

"Cái gì? Mày bảo sao?". Lão Sửu há hốc mồm, thằng này bị dở thật rồi hay sao mà dám lôi thần linh ra đùa.

Lạc nhàn nhạt đáp lời: "Cháu sẽ cho cụ xem, nhưng cháu cần mấy thứ".

Nói rồi hắn tả cho ông lão những thứ hắn cần (thời này người ta không có hiểu biết hay đặt tên như thời hiện đại), đại loại là than đá mỡ, vũ khí bằng sắt cũ, đá vôi. Vốn vẫn còn nghi ngờ nhưng lão đã xem Lạc như cháu ruột của mình, con trai lão đã chết trận mà chưa kịp lấy vợ nữa. Lão đứng dậy đi về phía ngôi làng, một chốc sau, trong làng có khoảng chục người cao tuổi, phụ nữ và cả trẻ em đi ra khỏi làng để tìm những thứ hắn cần. Còn khoảng vài chục người thì dưới sự chỉ huy của lão và hướng dẫn của Lạc thì bắt đầu đắp lò rèn bằng trấu và đất, có các cửa thổi và thoát khí.

Còn lão Sửu sau khi phân công thì lại phải rèn một ít thứ lạ lùng dưới sự hướng dẫn của Lạc. Đó là một ít bánh răng, và ròng rọc bằng đồng, công nghệ rèn sắt và sắt thép thì bị nhà Hán cấm ngặt nên là tạm dùng đã. Dưới sự hướng dẫn của Lạc thì một chiếc máy nghiền nhỏ với hai chếc lu nghiền rỗng ruột ra đời, nối nhau bằng hệ thống bánh răng và ròng rọc. Những người phụ nữ khéo tay thì đang ngồi may những chiếc túi da trâu để làm túi ruột mèo dùng làm bễ thổi lò. Hắn muốn rèn một chiếc kiếm thép, để chứng minh với lão Sửu. Lão Sửu ngạc nhiên lắm, chả biết những thứ kỳ quái này để làm gì nhưng thôi chứ làm xem sao vậy. Đến chiều thì chiếc lò rèn và mấy thứ lặt vặt đã xong, lão Sửu mang ra cái bọc có tới mấy chục thanh kiếm bằng sắt của hán quân thu được từ thời khởi nghĩa, được chú Quốc mang về. Hắn rất may mắn, vì chú Quốc để lại ở trong làng cả một kho vũ khí, phòng khi chú không có mà bị tập kích bất ngờ.

Những người ra khỏi làng buổi sáng đã trở về, gùi trên lưng những sọt đan chứa đầy than đá và đá vôi, may mắn cho hắn là xuyên tới Khúc Dương (là khu vực giáp Chí Linh, Hải Dương từ Kinh Môn qua Quảng Ninh tới tận Quảng Tây Trung Quốc, Cụ thể main thì ở đại khái khu vực Đông Triều, Quảng Ninh ngày nay) ở khu vực này thì mấy thứ than đá hay đá vôi này ném đi không hết. Không những thế nơi này còn có thể tạo ra thứ hắn đặc biệt quen thuộc, Xi Măng, nghĩ đến thôi hắn đã thấy thèm cây bút với tờ giấy A0 rồi.

Quay lại với việc rèn thanh kiếm đầu tiên, dưới sự hướng dẫn của hắn, mấy chục dân làng cặm cụi đập sơ than, rồi cho qua máy nghiền. Hắn muốn tạo dầu từ than đá, than sau khi đập và nghiền được đưa vào lò song song, một lò đốt và dẫn khí nóng rực qua bột than đập nhuyễn, số lượng chưng cất được ít đến thảm thương mà phải pha với dầu thực vật có trong làng nữa mới được một lu sành nhỏ. Nhưng thế đủ rồi, hắn cần cái làm mẫu thôi. Vật vã cả chiều với sự giúp đỡ của lão Sửu cùng với mớ lý thuyết trong đầu, sau khi nung thép, loại bỏ tạp chất bằng vôi để khử tạp chất, cũng may hiện hắn đang sở hữu bộ não chắc là giá trị nhất "khu đông Lào" này, cộng với tay nghề khá và giỏi của lão Sửu thì công việc diễn ra khá êm xuôi. Rồi sau khi thường hóa, tạo hình thi lại phải tôi thép ba quá trình trong dầu gồm sôi bề mặt, sôi nhiệt và trao đổi nhiệt, hắn còn cẩn thận dùng muối để thử nhiệt độ qua quan sát màu biến đổi. Càng làm, thái độ của lão Sửu ngày càng tin tưởng Lạc, để ý từ cách phân công công việc, rồi cả kỹ thuật và cách giao tiếp nữa, trong lòng lão bắt đầu có chút hy vọng thằng Lạc không bị dở. Mà đích thực nó được thần linh chọn lựa, vì lão chẳng có ý tưởng nào để giải thích về những thứ hắn đang làm cả.

Những người dân làng thì vốn chẳng hiểu gì lắm nhưng cũng vô cùng phấn khởi khi lạc nói tối nay hắn tổ chức một buổi tiệc. Tới chiều tà thì những thanh niên trai tráng đi săn cũng trở về, hầu hết trai tráng đã được gọi đi rồi, nên ở mỗi làng chỉ còn khoảng chục thanh niên để săn bắn và đề phòng thôi. Khu vực cha hắn quản trị này gồm cả chục làng, nhưng mỗi làng chỉ có khoảng một trăm, một trăm năm mươi người thôi, chưa tính số trai tráng đã điều đi. Dân số Giao Chỉ thời này còn chưa tới một triệu người, dân số như thế đã tính là đông đúc rồi.

Khoảng bảy tám thanh niên, thân thể rắn rỏi, trên người họ có rất nhiều "tha thu", người thì kín từ chân đến hết lưng, người thì hai cánh tay. Một thanh niên đi đầu trông già dặn, cao khoảng mét sáu tám (thời Việt cổ người Việt khá nhỏ bé, chiều cao chỉ khoảng 1m6, hãn hữu mới có những chiến binh cao lớn, 1m75 đã là rất khủng rồi) nhỉnh hơn tất cả, khuôn mặt góc cạnh và già dặn, nhìn thế chẳng ai ngờ hắn mới có mười lăm tuổi. Đó chính là thằng Dần, người cứu Lạc lúc hắn bị ngã.

Vốn dĩ hắn và Lạc đều được chú Quốc dạy võ, lần này nó nằng nặc xin chú Quốc đi đánh quân Hán cùng, nhưng chú Quốc kiên quyết không cho, tới mức phải tẩn cho thằng lầy lội này một trận nên thân thì nó mới hậm hực mà thôi. Họ rất nhanh nhận ra người làng đã đi đâu hết và thở phào sau khi tìm được bãi đất trống gần suối nơi dân làng tụ tập

Mới đầu Lạc cũng giật mình vì đội quân "tha thu" này, thầm nghĩ đội này mà xuyên không đến hiện đại thì lên làm bố của "mõm" luôn. Lũ trẻ rối rít chạy ra kể lể, khoe công sức của ngày hôm nay làm ai cũng ngạc nhiên, cũng có phần chờ mong nữa, người việt thời này đã ai rừng rèn được kiếm sắt đâu. Mà những thanh niên này cũng chỉ là thành phần bình dân, nô tỳ (tróc, nọi) nên không dám ý ới gì với thằng Lạc cả, với cả nó đang làm gì cho thần linh cơ mà, thần linh ở cái bối cảnh lịch sử này thì chính là tối thượng rồi.

Nhắc đến Lạc thì thằng Dần nhảy cỡn lên chạy về phía Lạc, rồi chả kịp cho chào hỏi gì, cũng chả quan tâm là người nó đi săn về mà nách thì rau mùi trầm trọng, nó ôm chầm lấy lạc mà siết.

"Ha ha, mày tỉnh rồi hả, làm tao cứ tưởng mày phải chết cơ."

"Hự, tao không thở được". Lạc khò khè, thầm nghĩ mới ốm dậy đã ăn rau mùi rồi.

Tuy không biết thằng này nhưng thái độ chân thật, cộng thêm nó từng cứu mình thì Lạc cũng vui vẻ đùa nó tý. Hai thằng đang vui vẻ thì đột ngột tiếng kim loại dừng lại, kế đó là một tiếng "xèo" vang lên. Tất cả bỗng dưng im bặt rồi liếc mắt về phía lão Sửu. Rồi chẳng ai bảo ai, mọi người như nín thở khi lão đưa thanh kiếm lên mài, từng lớp từng lớp chất bẩn và mùn bám dày thêm trên thanh kiếm. Đôi mắt của lão Sửu gần như lồi ra vì hồi hộp và căng thẳng, lão từng rèn đúc biết bao thanh kiếm đồng, có gì đó mách bảo lão cây kiếm sắt lão đang mài này là thứ gì đó rất quan trọng. Lão nhúng thanh kiếm vào nước rồi khẽ khàng rút ra lau như mình đang lau mặt vậy. Rồi bỗng khuôn mặt lão đột nhiên cứng lại, lão quay mặt về phía Lạc mà nhìn trân trối, từ khóe mắt già nua chảy ra hai dòng nước mắt. Lúc này những người dân làng cũng lặng im nhìn về phía thanh kiếm, họ thấy ánh sáng nhàn nhạt của thanh kiếm lúc này như xua tan đi cái mờ mịt của buổi chiều tà sắp tới.

"Ông đừng khóc vội thế".

Lạc bước lên đón lấy thanh kiếm, rồi cầm lấy một thanh kiếm trong số kiếm của quân Hán rồi đưa cho Dần, ngỏ ý để hắn thử kiếm. Thằng Dần vốn đã mắt sáng quắc từ lúc thấy thanh kiếm Gladius rồi, cầm kiếm trong tay nó cảm giác như thanh kiếm sinh ra để cho nó vậy. Thanh Gladius được Lạc chọn làm vũ khí bộ binh tương lai vì nó gọn, nhẹ, hợp với dáng vóc thấp bé và lối chiến đấu của người Việt, vốn dĩ người Việt cổ là dân tộc rất giỏi đánh cận chiến, điều này được ghi lại cả trong lịch sử của Trung Quốc.

Thanh Gladius đặc biệt hiểm với những cú đâm thọc sườn, hơn nữa với chiều dài chỉ khoảng sáu mươi lăm Centimet, nặng chừng 1, 2 tới 2kg, nó dễ dàng hoạt động trong địa hình rừng núi, tương lai khi kỹ thuật rèn đã thành thạo thì hắn sẽ cho chế tạo mẫu Gladius Pompei còn nhẹ và hiệu quả hơn nữa. Thằng Dần mắm môi cầm thanh kiếm mới chém mạnh vào thanh kiếm Hán.

"Keng, Keng"

Từng tiếng kim loại chát chúa vang lên, sau năm, sáu lần chém thì thanh kiếm Hán đã bị mẻ một vết to tướng như sắp gãy còn thanh Gladius thì mới chỉ có vài vết lõm nhẹ ở lưỡi. Lạc chẳng mấy bất ngờ, vì vốn dĩ thanh kiếm vẫn chưa phải loại thép tốt nhất và hắn cũng chờ đợi ở thanh Gladius vì các cú đâm phá giáp chí mạng chứ không phải khả năng chặt chém. Dân làng thì reo hò, hú hét đặc biệt là mấy tay thanh niên trong làng, còn lão Sửu thì càng khóc rống lên, lão sâu quá hiểu vũ khí của người Việt quá lạc hậu, nếu quân khởi nghĩa có thứ vũ khí này thì con trai lão, cha thằng Lạc, và cả biết bao nhiêu người con đất Việt có lẽ đã có nhiều cơ hội để trở về hơn.

Tối đó dưới ánh lửa, dân làng ăn thịt rừng, cá khô, hoa quả tươi, họ hồn nhiên say sưa nhảy múa hát ca, chẳng ai nhớ rằng có một cuộc chiến sắp tới, mảnh đất Lĩnh Nam tươi đẹp sắp chứng kiến biết bao tàn khốc và đau khổ. Mọi người vui vẻ, thằng Dần thì say mê thanh kiếm, ôm khư khư như ôm người yêu vậy, chỉ có lão Sửu đang lặng yên suy tư điều gì đó. Lão muốn hỏi, nhưng nhìn khuôn mặt trầm tư của thằng nhóc Lạc thì lại không nỡ, mãi đến khi tàn tiệc, mọi người đã về cả, thằng Dần thì ôm kiếm nằm ngủ ngay kế đó luôn

Lão khẽ khàng: "Cháu gặp thần linh thật sao Lạc"?

Hắn quay lại nhìn ông lão cười nhẹ: "Ngày mai, xin ông giúp cháu tập trung các làng, cháu sẽ nói rõ, giờ ông cháu mình đi ngủ thôi. Ngày mai còn nhiều việc phải làm lắm".

Hắn đứng dậy ngước mắt lên nhìn bầu trời sao, hắn biết thời gian đã quá gấp rút để chuẩn bị rồi, người Lĩnh Nam có phần thua rất lớn trong trận chiến sắp tới. Hắn thì khỏi nói đi, thuần một con Crep, để tay đôi solo chân tay bo thì hắn còn chơi được tí, chứ để hóa thân thành mấy anh Long, anh Vũ trong phim cổ trang thì hắn xin kiếu. Nhìn thì ngầu đấy, nhưng mấu chốt là hắn chỉ có bộ não thôi chứ k có thân thể siêu nhân. Yêu nước bằng cái đầu thì bền chắc hơn nhiều, không phải bất khả kháng thì đừng có mơ hắn nướng thịt lao vào các tướng lĩnh Hán được đào tạo chính quy, quân đội tổ chức kỷ luật, với vũ khí, ngựa, thuyền áp đảo. Huống hồ trong nước còn nhiều kẻ có tâm bất chính. Bộ máy chính quyền non trẻ của hai bà Trưng còn chưa thực sự kiểm soát được những thế lực bên dưới.

Nếu chẳng phải xuyên qua, thì hắn tự biết nếu sống ở thời này, xách dép cho hai bà còn chưa xứng. Hít một hơi thật sâu, hắn tự nhủ mình phải bình tĩnh, hắn có lợi thế từ cả ngàn năm tích lũy cho tri thức, tính toán cẩn thận thì sẽ ổn thôi. Hắn quay lưng đi về phía ngôi nhà gỗ, trong mắt tràn đầy kiên định. Nhà còn bao việc, không thể chết vội ở nơi tinh không vừa quen thuộc vừa xa lạ này. Lão Sửu nhìn vóc dáng nhỏ bé của thằng nhóc mười lăm tuổi đang đi về phía xa, lão chẳng biết mình có hoa mắt hay không, nhưng trong chốc lát lão thấy bóng dáng ấy như vững chãi vô cùng và bước chân lão cũng theo sau bóng dáng ấy từ lúc nào không hay.