Chương 229: Hồi hai mươi hai (11)
Năm năm có lẻ, thật hiếm khi Tạng Cẩu lại được cười thoải mái như hồi nãy. Lúc này tâm tình đã thư thả, mới hiểu được khổ tâm của cô bạn. Lúc này nhìn sang, chỉ thấy Hồ Phiêu Hương đang ôm chân, cằm tựa lên gối, mông lung nhìn vầng trăng. Tóc mai phủ xuống bên đầu, từng sợi từng sợi bay phấp phới trong gió.
Trên đầu Phiêu Hương chẳng biết tự bao giờ đã cài một cây châm ngọc.
Ánh trăng mờ mờ tỏ tỏ, rọi xuống gương mặt trái xoan của thiếu nữ, chẳng còn phân biệt rõ được cô nàng có điểm trang hay không nữa.
Tạng Cẩu đột nhiên giật mình, quay mặt sang hướng khác.
Thấy cậu chàng đột nhiên lóng nga lóng ngóng, Hồ Phiêu Hương cũng bật cười khúc khích. Bóng dáng đứa nhóc tì ốm đói trước đây, và thiếu niên tuấn dật của hiện giờ bỗng lồng vào nhau.
Cẩn thận ngẫm lại, thì từ bấy đến giờ có lẽ chỉ có lúc phải chiến đấu với người ta, Tạng Cẩu mới lộ ra bộ mặt kia của bản thân. Bình tĩnh, thong dong, trầm ổn. Song, Hồ Phiêu Hương lại không thích bộ mặt ấy bằng Tạng Cẩu của hiện tại. Lóng ngóng, ngố ngố, hiền lành…
" Thiên vi khâm chẩm, địa vi chiên,
Nhật nguyệt đồng song đối ngã miên.
Dạ thâm bất cảm trường thân túc,
Chỉ khủng sơn hà xã tắc điên. "
(Dịch thơ:
Trời làm màn gối, đất làm chiên
Nhật nguyệt cùng ta một giấc yên
Đêm khuya chẳng dám dang chân duỗi
Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng.
Không rõ bản dịch của ai, nguồn tham khảo thivien.net)
" Hôm nay Hương cao hứng đọc thơ quá nhỉ? "
Tạng Cẩu ngó cô nàng, lên tiếng hỏi.
Hồ Phiêu Hương chớp chớp mắt, nói:
" Có lẽ do tức cảnh đấy mà. "
" Tên bài thơ phải không? Ai làm thế? "
" Lý Thái Tổ đấy. "
Đêm trăng lặng lẽ trôi về buổi sớm.
Hai người lặng yên ngồi bên nhau, mặc kệ cho sương mai đậu lên vai, lên tóc.
Một đêm không ngủ, nhưng hai người đều có công phu nội gia, thành thử vẫn thần thanh khí sảng.
Vừa đúng lúc đứng dậy, thì thấy một bóng người lảo đảo từ trên núi xuống.
Áo bào đỏ như lửa rách tươm, tóc dài như suối đổ trên vai, vừa chống thanh binh khí quái dị nửa đao nửa kiếm lê tấm thân đầy máu đi trên đường lớn. Lại gần, còn có thể thấy trên mặt y mang một tấm mặt nạ quỷ, thắt lưng dắt một cái hồ lô sơn đỏ đang lúc la lúc lỉu đập vào bên eo.
Gã chính là Tửu Thôn Đồng Tử!
Giờ lại kể chuyện Hổ Vương đánh lên đỉnh núi Điểm Sơn, bị vây trong quái trận không sao lên núi được…
Nguyễn Trãi đi khuất, một lúc sau đã chạy xuống tiểu đình gặp hai người Hổ Vương, Bạch Thanh Lâu.
Trên tay chàng ta còn cầm theo hai tấm gương đồng đã vỡ.
Hổ Vương nhìn tấm gương trên y cầm, đột nhiên tỉnh ngộ:
" Là ảo giác? "
Nguyễn Trãi gật đầu, đáp:
" Đúng thế. Trận thế này dùng gương để lợi dụng ánh sáng từ mặt trời và những ngọn đuốc, đánh lừa mắt nhìn của chúng ta. "
Bạch Thanh Lâu nói:
" Trận thế này phức tạp đến đâu? Tại sao chúng ta nhập trận mà không hề biết? "
Nguyễn Trãi mỉm cười, chỉ lên đường núi gập ghềnh:
" Còn nhớ tảng đá chúng ta thấy trên đường không? "
" Đó là cửa vào trận? "
Bạch Thanh Lâu nghĩ kỹ lại, thì tảng đá đó quả thực đáng nghi. Nhưng ba người chỉ chạy quanh tảng đá đúng ba cái hô hấp, sau đó đã lạc lối. Lẽ nào là tà pháp?
Hổ Vương trầm giọng:
" Tảng đá đó là lối vào, cũng là lối ra! "
" Không sai! Mê trận này tưởng như phức tạp, nhưng thực ra lại rất đơn giản. Người bày trận lợi dụng ánh sáng, khiến đường lên núi trông như đang hướng xuống, còn lối xuống núi lại nhìn như rẽ sang hướng khác để đi lên. Kì thực chúng ta đã chạy một vòng quanh tảng đá đó, rồi cứ thế lao xuống đây. "
Nguyễn Trãi mỉm cười, đoạn nhìn sang chỗ Phượng Hoàng tinh đang ngồi chải tóc. Đoạn, chàng ta tiếp tục bước mấy bước, chỉ thanh giáo Mê Linh lên núi:
" Chúng ta bị mê trận dắt mũi, ngoài việc đại trận đơn giản đến khó tin chỉ là một nguyên do! Nguyên nhân thứ hai là trận này chuyên dùng để đối phó hạng cao thủ lên núi như đi đất bằng như chúng ta. Nếu là người thường không có nội lực, lên núi sẽ khó hơn lúc xuống! Nhưng thử hỏi, chúng ta lên núi xuống núi đều dễ dàng như nhau, thì làm sao phân biệt lúc nào đang lên dốc, khi nào đang xuống dốc? Có thể nói so với người thường, cao thủ võ lâm càng dễ bị mê trận này làm cho mất phương hướng hơn! "
Hổ Vương cũng gật gù:
" Khách giang hồ bình thường sợ uy sơn trang, tuyệt đối không dám bén mảng đến. Còn loại cao thủ tầng thứ như ta thì sẽ dễ dàng bị mê trận này nhắm vào. Xem ra bản vương vẫn hơi coi nhẹ sơn trang Bách Điểu! "
Ba người đã phá giải được huyền cơ của mê trận, tinh thần phấn chấn hẳn. Hổ Vương phát hiện tình huống giờ đã không như trước. Bây giờ Phượng Hoàng tinh đã có thời gian hồi sức, không khống chế e là có hại đến đại cục. Thành thử lại gần điểm luôn huyệt đạo của bốn TInh, tiện tay ném luôn Phượng Hoàng tinh vào trong kiệu hoa. Đoạn dẫn đầu vác kiệu trên vai, băng băng chạy lên núi.
Vượt qua hòn đá thần Trấn Sơn, ba người đến một ngôi đình nhỏ khác. Phía sau đình là vực thẳm, nối với đỉnh cao nhất của núi Điểm Sơn bằng một cái cầu treo bằng xích sắt, độ rộng đủ cho năm sáu người đi qua thoải mái.
Không nói cũng biết, muốn lên chính điện, thì phải qua cây cầu này.
Trong đình đang có hai người đang ngồi.
Ba người Hổ Vương cẩn thận quan sát đối phương, chỉ thấy cả hai đều mày thanh mục tú, lưng thắt ve vàng, tóc xanh như suối. Tuy là mang mạng che mặt, song vừa nhìn là biết ngay cả hai đều là mĩ nhân có thể khiến làng trên xóm dưới điên đảo. Bấy giờ người bên trái đưa tiêu lên môi, người bên phải cầm địch đặng thổi. Những ngón tay đặt trên lỗ sáo tựa như măng ngọc.
Vừa thấy bóng Hổ Vương, hai người nọ đã nhẹ nhàng nhún mình chào, đoạn nói:
" Hổ Vương liệu có thể nể mặt gia sư mà xuống núi? "
" Ta và con ả Cầm Ma chỉ gặp đúng một lần vào hai mươi năm trước, trước giờ vốn không có giao tình gì… Cho dù ả có đứng ở đây, bản vương cũng chưa chắc đã chịu nể mặt, huống hồ chỉ có hai người các ngươi? "
Hổ Vương đặt kiệu xuống, đoạn hỏi:
" Hai người hẳn là Tiêu Ma, Địch Ma trong Thất Tuyệt Ma Nữ? "
Tuyệt Tình điện nằm lẩn khuất chốn Đèo Ngang, trước giờ không hỏi thế sự, đệ tử có xông pha võ lâm cũng hành xử cực kì bí ẩn. Khách giang hồ bình thường chỉ biết điện chủ là Cầm Ma, cũng là một trong bảy tông sư… ngoài ra thế lực này có bao nhiêu phân điện, bao nhiêu cự đầu chủ chốt thì mù tịt. Ngay cả Bạch Thanh Lâu, Nguyễn Trãi xuất thân từ Quốc Tử Giám – chốn vốn được xưng là Vạn Sự Thông của võ lâm Đại Việt cũng không ngoại lệ.
Nhưng Hổ Vương trước là người miền ngược, sau lại có chỗ giao tình với Cứu Khổ Thần Tăng của Nam Trúc Lâm cũng ở đèo Ngang, thành ra nội tình sâu cạn của Tuyệt Tình Điện ông cũng có được biết đôi chút qua lời kể của Cứu Khổ Thần Tăng.
Trước giờ Cầm Ma vốn không phục thần tăng có được lệnh ẩn thế, ngoài mặt thì tường hòa nhưng trong tối thì hai thế lực Nam Trúc Lâm và Tuyệt Tình Điện có giao thủ với nhau mấy lần, lần nào cũng bất phân thắng bại.
Theo lời thần tăng, cao tầng của Tuyệt Tình điện ngoại trừ Cầm Ma, còn có Thánh Nữ Song Sứ Thất Tuyệt Ma.
Trong đó, thánh nữ là truyền nhân các đời Cầm Ma lựa chọn từ khi còn nằm nôi, thường là bắt cóc về rồi nuôi dạy. Trước năm mười tám tuổi tuyệt không đi lại trên giang hồ.
Đại hội võ lâm chia thánh lệnh lần trước sở dĩ xuất hiện một Cầm Ma mới mười lăm, theo như Hổ Vương được biết thì là do Cầm Ma đời trước bị đánh lén trọng thương, tự thấy khó giữ mạng, thành ra trước khi chết kịp thời quán đỉnh truyền công cho thánh nữ của Tuyệt Tình điện. Còn trong chuyện này có bao nhiêu phần thật, bao nhiêu phần giả, thì Hổ Vương cũng chịu. Dù sao cũng chỉ là tin đồn…
Song Sứ, là hai sứ giả truyền tin của Cầm Ma, chia làm một sinh một tử… Còn võ công của hai thánh sứ này cao thấp ra sao, Hổ Vương không biết một chút nào. Nhưng nghe Cứu Khổ Thần Tăng kể lại thì tuyệt đối không thua gì bang chủ trưởng môn của các bang phái lớn.
Thất Tuyệt Ma Nữ thì Hổ Vương lại biết một chút.
Thất Tuyệt Ma Nữ cũng như tên gọi, là gồm bảy cô gái mang mạng che mặt, mỗi người lại luyện một đoạn ma âm trong Thất Tuyệt Ma Âm. Cứu Khổ Thần Tăng từng nói bảy người này thường ỷ vào ma âm mê hoặc chúng sinh, chứ võ nghệ chỉ có thể tính vào hàng bình thường. Nhưng khi đến chỗ này thì Hổ Vương lại thấy đau đầu…
Môn Thất Tuyệt Ma Âm này Hổ Vương cũng đã nếm thử vào hai mươi năm trước, ngay trong đêm hội Chí Tôn. Lúc ấy ma âm do chính Cầm Ma gảy đàn bầu tấu lên, mỗi khúc lại đánh vào một trong thất tình trong bản tính của con người, ngay cả ông nếu lúc đó vẫn có tâm phòng hờ, không kịp ngưng thần giới bị chắc chắn sẽ trúng mê hoặc, trông thấy đủ loại ảo ảnh kì quặc. Đến cả một tông sư không sợ trời đất, không nhìn quỷ thần như Hổ Vương mà còn thiếu chút nữa không đánh tự thua, đủ thấy Thất Tuyệt Ma Âm này quả thực là rất khó đối phó. Tuy mỗi người trong Thất Tuyệt Ma Nữ chỉ học được một phần bảy khúc phổ, nội lực lại không thể bằng được Cầm Ma, nhưng cả đời khổ luyện, giống như Nghiêu Tư bắn cung, chỉ sợ là hỏa hầu đã đạt tới hóa cảnh, sở học không bác mà tinh thâm…
Sở dĩ Cứu Khổ Thần Tăng không đề cao Thất Tuyệt Ma Nữ là do ông ta có Phật Âm khắc chế bảy người này gắt gao, võ công lại đứng hàng tông sư. Chứ Hổ Vương một câu kinh không biết niệm, một trang kinh chưa từng giở, cả đời còn chưa biết cái mõ gỗ tràng hạt ra làm sao, thì chỉ có nước ỷ vào nội lực cao cường để phá giải ma âm mà thôi.
Hai người này nhìn qua giống nhau như hai giọt nước, thì ra là một cặp chị em song sinh. Một người mang địch một người cầm tiêu, tự nhiên chính là hai trong Thất Tuyệt Ma Nữ, Tiêu Ma và Địch Ma.
" Một chút hư danh lại được Hổ Vương đây biết tới, chị em Nhị Khanh thật là nở mày nở mặt. "
Tiêu Ma lên tiếng, giọng nói ngọt như mật, thấm như rượu, êm như suối, trong như nước… quả thực chỉ nghe thôi mà có thể khiến người ta say chuếnh choáng quắc cần câu.
Nguyễn Trãi chợt lên tiếng:
" Không biết Nhị Khanh là chỉ người nghĩa phụ (ở đây là người đàn bà có nghĩa) Khoái Châu, hay hồn quỷ ở Nam Xang? "
Trong dân gian vẫn truyền lưu hai câu chuyện kể về hai Nhị Khanh khác nhau. Một người là chinh phụ ở Khoái Châu thời Hồ, một là hồn ma phóng đãng đời Trần. Tuy thời gian cách nhau đến hơn một giáp, kết cục của hai Khanh cũng khác biệt, song đều nhuốm màu truyền kỳ hư ảo, thành thử người ta chuộng nghe.
Sau lần gặp cha ở biên cương, Nguyễn Trãi tính tình thay đổi, lang thang đó đây, dùng nghề xem tướng kể chuyện mưu sinh… Thành ra ngoài sách thánh hiền, thanh sử, chàng ta còn biết cả loại văn thời bấy giờ vẫn bị coi là " vớ vẩn " ấy nữa. Bạch Thanh Lâu thì trước giờ đứng đắn, tao nhã, loại tiểu thuyết này y chẳng thèm ngó tới.
" Hai chúng tôi được sư phụ nhặt về, ban cho tên họ, cả hai đều là Nhị Khanh. "
Tiêu Ma, Địch Ma đồng thanh.
Nguyễn Trãi thấy vậy, chắp tay sau lưng, nói:
" Một người là chinh phụ, sau được thiện quả, thành thần nữ ở đền Trưng Vương. Một kẻ là dâm hồn, sau bị ác báo, đầu trâu mặt ngựa giải xuống âm tào chịu khổ hình. Sư phụ hai người cũng thực là… Đệ tử vốn là một đôi chị em song sinh, tại sao lại chọn tên theo kiểu nhất bên trọng nhất bên khinh như vậy? "
Địch Ma thản nhiên:
" Sư phụ có ơn trời bể, tên người đã ban là tự có dụng ý riêng, chị em tôi nào dám có lòng khác? Thầy khóa có lòng muốn chia rẽ, e là uổng công. "
Nguyễn Trãi thò ngón tay ngoáy lỗ tai, mặt nhăn như khỉ ăn ớt.
Chàng ta và Bạch Thanh Lâu vốn là kẻ vô danh trong mắt Hổ Vương, nhưng ông ta lại nhận ra thân phận của hai cô. Chứng tỏ hai người trong Thất Tuyệt Ma Nữ này phải lợi hại ghê lắm.
Nguyễn Trãi vốn muốn dùng ba tấc lưỡi, nếu được thì chia rẽ hai người, ít nhất cũng phải làm họ nghi kị lẫn nhau thì mới dễ bề lên núi. Tiếc là vô công.
Tiêu Ma đưa sáo lên môi, nói:
" Hổ Vương, xin chỉ giáo! "
Hổ Vương thấy vậy, gầm lên:
" Hai người mau nhắm mắt vận công, thủ vững tâm thần, cứ nhẩm đọc sách thánh hiền là được, không cần nghĩ tới chuyện gì khác! "
Đoạn, ông nhảy phóc tới trước mặt hai nữ, song quyền cùng tung ra!
Nắm đấm của Hổ Vương có oai thế như đàn ngựa hoang phi xuống núi, đàn voi lớn băng qua rừng, quả thực không thể nào ngạnh kháng nổi. Hai người từng được sư phụ dặn dò phải cẩn thận võ công của Hổ Vương, chớ có coi thường ông ta là người miền ngược. Hai ma nữ vốn đã rất đề cao đối thủ, không ngờ Hổ Vương trước tiên là nhìn ra thân phận họ, sau lại không nói không rằng giở luôn sát chiêu ra! Quyền phong của Hổ Vương đánh tới, thổi tóc mai cả hai bay phấp phới, cơ hồ không thể hô hấp được.
Mắt thấy hai nữ sắp ngọc nát hương bay dưới nắm đấm của ông, thì bỗng nhiên từ bốn góc mái ngôi đình nhỏ, bốn bóng người vốn phục sẵn lao vút ra. Quyền cước đao kiếm cứ thế nhất tề công vào các huyệt trọng yếu của Hổ Vương. Té ra những người này lấy chân móc vào rầm mái, giấu mình sau cột đình. Bây giờ trời không còn sớm nữa, họ lại đều mặc đồ dạ hành, thành ra cho dù Hổ Vương mắt sáng như mắt cú cũng không phát hiện được.
Nhưng người một khi xuất thủ, sẽ chẳng khác nào mặt nước yên tĩnh bỗng nổi ba đào. Khí tức đang thu liễm ắt phải bạo lộ ra, chuyển từ cực tĩnh sang cực động. Nhất thời bốn người… bốn cái bóng có khí thế chẳng khác nào đá tảng, lá cây thoạt biến đổi thành bốn tên cao thủ thượng thặng.
Bốn kẻ ra tay đánh lén quả có võ công rất cao…
Khí thế chuyển từ cái ì sang cái đột, trì trệ sang linh hoạt trong tích tắc.
Nếu đổi lại là cao thủ bình thường, chắc chắn sẽ phải táng mạng.
Nhưng bốn người võ công võ công cao mấy, vẫn dưới Hổ Vương Đề Lãm không chỉ một phần.
Lúc khí thế của cả bốn thay đổi, thì song quyền của Hổ Vương cũng đã cướp trước một bước mà di động, tuyệt nhiên không hề có độ trễ. Tốc độ phản ứng như thế đã không thể gọi là nhanh, mà phải nói là thần kỳ, phi nhân loại. Cứ như thể ông là ảnh phản chiếu của bốn kẻ kia ở trong gương vậy…
Nắm đấm vốn là đấm thẳng, đột nhiên tạt ngang sang hai bên. Quyền của Hổ Vương rất nặng, rất nhanh, cho dù thanh sắt ròng đúc đặc ông cũng đấm cho gãy toạc ra được. Bốn người nọ tuy công phu không tệ, vũ khí cũng không phải vật bình thường, nhưng dưới một quyền của Hổ Vương thì tuyệt nhiên không chống lại nổi.
Quyền của Hổ Vương gạt trúng mặt đao, kiếm, chấn chúng gãy lìa. Đầu mũi kiếm, lưỡi đao bị gãy bị kình lực của ông chấn văng, bắn vào mặt của hai kẻ ám toán còn lại. Cả hai buộc phải thu chiêu né tránh, thành thử thế gọng kìm bủa vây Hổ Vương bị phá tan.
Phá được thế công, nhưng Hổ Vương tuyệt chưa chịu thôi. Lão dậm chân bắn vọt đi như một quả pháo, quyền đổi thành trảo, chộp về phía gương mặt bốn kẻ đánh lén. Chỉ kình ác liệt như xẻ trời rạch đất chộp xuống mặt, khí thế hung hãn cương mãnh khóa chặt toàn thân như gông như xiềng, khiến hai người nọ thở không ra tiếng, nói không nên lời.
Bình!
Lúc này, hai người còn lại cũng chuyển mình, giở ra công phu gia truyền chỉ cốt giữ lấy cái mạng của đồng bọn, cũng là tự bảo vệ mình. Bởi cả hai sau khi đỡ một chiêu của Hổ Vương thì đã biết quá rõ cả bốn phải liên thủ lại thì may ra mới cầm cự được với Hổ Vương mấy hiệp. Nếu như hai người kia toi đời quá sớm, chỉ có hai đánh một, thì áp lực đè lên người hai người sẽ cực kì kinh khủng, e là rất nhanh thôi sẽ nối gót xuống âm tào nốt!
Tuy là tiếp được hai trảo của Hổ Vương, nhưng hai người cũng bị kình lực chấn cho bật cả máu mồm, không thể không bại lui như núi đổ.
Kì thực hai người cũng nghẹn khuất. Trong sơn trang Bách Điểu này bọn họ cũng là cao thủ tầng thứ cao nhất, trước giờ đi lại trên giang hồ nếu không đơn đả độc đấu, thì cũng là họ đi vây công người ta. Nào có chuyện đã lấy đông đánh ít, giở trò đánh lén lại còn nơm nớp lo sợ như vậy?
Nhưng đối thủ lần này là Hổ Vương, tính ra cả bốn đều là bại tướng dưới tay ông, thành ra ngay từ đầu, khí thế của họ đã bị áp chế.
Sau chiêu đầu tiên, cả bốn càng hiểu sâu sắc rằng thân thủ của mình dẫu quả thực tiến bộ, nhưng nếu đem so so với sự mãnh tiến của Hổ Vương thì lại chẳng khác nào dậm chân tại chỗ.
Thành ra khí thế lại tụt xuống một đoạn.
Cao thủ ở cùng một tầng thứ, mỗi một lợi thế nhỏ nhất đều có thể quyết định thắng thua.
Huống hồ Hổ Vương và bốn người từ xưa đã không còn ở cùng một tầng thứ.
Không sai!
Bốn người này chính là Tứ Đại Minh Vương của Bách Điểu sơn trang.