Chương 134: Quân Điền

Tam Quốc Việt Tộc Tham Chiến

Chương 134: Quân Điền

Thì ra Lục y đã cho cả mười chiến thuyền còn lại của hắn quay trở về Đông Ngô tìm cứu viện mới sau khi La Lễ trốn thoát được từ Kê Từ trở về… Đồng thời tên này còn nhanh chân mà quay về Hợp Phố ngay lập tức. Quyết đoán đến thế này thì đúng là không thể nào quân Đại Việt có thể đuổi kịp 8 ngàn quân của Đông Ngô. Giờ đây Lục Y quyết định sẽ chiêu mộ thêm thổ binh tại Uất Lâm và Thương Ngô để từ từ đối phó cùng quân Đại Việt. Tuy rằng nói thành Khúc Dương Cao lớn vững trãi nhưng vấn đề đó là Hắn không đủ lương để nuôi gần một vạn quân trong thời gian dài… Chiến thuyền của hắn đã gần như mất hết. Mà lương thực thì mới chuyển một phần từ trên thuyền xuống Hợp Phố mà thôi. Chặng đường từ Hợp Phố đến Khúc Dương gần 200 km đường biển và 300 km đường bộ do tuyền đường cực kì rắc rồi. Lại có thêm Sông Ka Long ở giữa chặn lại, việc vận lương bằng đường bộ coi như bỏ đi. Còn vận lương bằng đường thủy thì đừng nghĩ đến cho thêm mệt mỏi. Quân bản địa có thể chiếm được 40 chiến hạm của hắn thì không thể là dạng xoàng cho được, mười chiếc chiến thuyền còn lại nếu còn lởn vởn ở vùng biển Giao châu thì khả năng làm mồi cho cá là cực lớn. Quan trọng nhất là việc quân cứu viện có tới được hay không là cả vấn đề. Lần này mang đi một vạn quân chính quy Đông Ngô và 64 chiến hạm là Đông Ngô vét cạn cả nhân lực vật lực rồi đấy.

Tuy nói Đông Ngô có 30 vạn quân, nhưng không phải quân nào cũng là chính quy. Nếu nói đến chính quy chỉ có 7 vạn quân thường trú tại Quảng Lăng, Tư Dương, Lịch Dương, Giáp Thạch là những thành trì phía bắc để chống lại sự xâm lấn liên tục không ngừng nghỉ của quân Tào. Nhất là từ khi Tôn Quyền xưng đế thì càng làm cho Tào Duệ ngứa mắt mà tấn công liên tục. Nếu không có Khổng Minh luôn lăm le ra Kỳ Sơn mà tấn công Tào Ngụy thì e rằng Đông Ngô phải tăng binh những nơi này lên đến hơn 10 vạn mới chống lại được. Mà phía tây của Đông ngô cũng đâu ổn định. Mang tiếng là kết minh cùng Thục Hán nhưng cái chết của Lưu Bị tại Bạch Đế thành được quy hết cho Đông Ngô. Cả vùng Kinh Châu là nơi mà Thục Hán thêm thuồng nhất… ngay cả kí hiệp nghị hòa bình rồi đấy nhưng hiệp nghị sinh ra là để xé bỏ. Vậy nên Tinh binh Đông Ngô trú đóng nơi đây lên tới 6 vạn người phân ở các thành trì như Kinh Châu, Tương Dương, Di Lăng, Tuy Lăng, Kiến Bình… Số 5 vạn tinh binh còn lại thì phân các thành trì khác nhằm trấn giữ dân bản địa Bách Việt cứ mộ năm mấy lần làm loạn nhỏ, vài năm lại khởi nghĩa lớn một lần. Số còn lại là các dân binh, lính mới, hoặc binh sĩ già không có sức phân ra để giữ các thành trì. Nhóm này căn bản không thể đi công thành chiếm đất cho được. Tính ra thì Đông Ngô chỉ dư ra vài vạn người có thể viễn chinh tấn công Giao Châu mà thôi. Giờ đây cộng cả quân Lã Đại và quân Lục Y thì đã có tới 2 vạn tinh binh Đông Ngô chôn chân nơi này rồi. Việc điều thêm quân là một vấn đề khá nan giải và cần có sự bàn bạc của triều đình. Mà với cơ cấu của triều đình thì Lục Y biết không có vài tháng thì đừng nghĩ đến chuyện có viện quân. Căn bản Giao Châu không phải là mối quan tâm hàng đầu của Đông Ngô nên họ sẽ không điều thêm tinh binh nữa cho cuộc chiến tại đây… mà chiến thuyền đã tổn thất đến hơn 100 chiếc đó mới là vấn đề cần lo nghĩ.

Quân Đại Việt do Nguyên Quốc thống lãnh dẫn 24 chiến thuyền xông thẳng tới sông Lục hải càn quét một vòng mà không tìm được bong dáng của 10 chiến thuyên Đông Ngô. Đúng lúc này thám tử theo dõi Khúc Dương báo lại đó là họ đã để xổng mất quân Đông Ngô rồi… Vậy mà Lục Y buổi tối bí mật theo cửa thành Đông trang bị gọn nhẹ chuồng thẳng về sông Lục Hải rồi qua sông mà chạy về Hợp Phố. Lúc này Nguyên Quốc có muốn đuổi theo cũng không kịp vì song Ka Long căn bản thuyền lớn vào không nổi. Kể từ lúc này sau 4 tháng chiến đấu với bao nhiêu vất vả thì Khúc Dương lăng không mà quay về tầm khống chế của quân Đại Việt một cách không tưởng như vậy.

Tầm giữa tháng 5 năm 230, thành Khúc Dương lúc này cự kì nhộn nhịp với 10 ngàn binh sĩ tụ tập. Nơi này có 9 ngàn người là tù binh do Lã Đại trả về và chứng minh được nhân thân là người Bắc Việt nên được tim tưởng giao nhiệm vụ thủ thành Khúc Dương cửa ngõ phía Bắc của Đại Việt. Một ngàn người lại là thuyên chuyển lính chuyên nghiệp từ Long Uyên trở về. Giờ đây phòng thủ Long Uyên lại không cần nhiều người như vậy nên 2000 lính chuyên nghiệp của Long Uyên được điều đi hết, nơi đó chỉ còn lại dân quân mà thôi. Thành Khúc Dương được Nguyên Quốc tin tưởng giao cho Bạch Công Ngưu Thiếu tướng Sư đoàn trưởng Sư đoàn bộ binh Bắc Phạt, đây là một thành trì quân sự hóa hoàn toàn nên không có dân sinh do đó không có Thứ Sử hay Thái Thú... Khúc Dương lúc này được coi là biên thành của Đại Việt bởi vì với binh lực hiện nay Nguyên Quốc vẫn không dám tiến lên chiếm Ninh Hải Hay hợp phố. Khúc Dương còn có com sông lớn Lục Hải để làm tấm bình phong chống giặc Bắc. Nếu như chiếm đóng hai nơi kia thì quân đội Đại Việt cần phải nâng cao rất nhiều cả về số lượng và chất lượng.
Thành Cổ Loa và Luy Lâu cũng đóng đến 1 vạn quâ thành phần cũng là 9 ngàn tù binh Lã Đại trả lại và một ngàn binh từ Long Uyên chuyển về với Hà Tùng là thiếu tướng Sư đoàn trưởng sư đoàn Bình Nam đóng tại nơi đây. Không khác Khúc Dương là bao Cổ Loa và Luy Lâu cũng trở thành khu biên thùy của Đại Việt và hai tòa thành này đều không có dân ở mà là khu quân sự hóa hoàn toàn.

Cả hai khu "biên thùy" này của Đại Việt đều có một đặc điểm đó chính là quân sĩ ở đây cũng chính là lực lượng tham gia sản suất. Nguyên Quốc thực hiện nguyên chế độ quân điền của nhà Tần vào hai khu vực này. Ngoài ra một sô nơi khác cũng thành lập quân điền dạng nhỏ đó là Đồng Muối, Hòn Gai và Đồng Mỏ… nhưng những nơi này thì quân điền có hơi khác một chút vì những binh sĩ tại đây sẽ khai thác than, muối, và đồng. Ba nơi này trú đóng tới 6 ngàn binh sĩ… hai ngàn là tù binh Lã Đại trao trả nhưng khó chứng minh được nhân thân lên Nguyên Quốc cho họ đóng quân tại Đồng Mỏ được giám thị bởi Đồng muối, Kê từ và Đồng Khe binh. Việc Bạch Công Ngưu bắt được 2ngàn tù binh người hán tại trận du kích chiến đã giải phóng sức lao động chèo thuyền cho hai ngàn đàn ông đang làm công việc đó vậy nên họ được điều đến Đồng Muối để vừa luyện tập vừa sản xuất Muối. Còn lại 2 ngàn binh sĩ tại Đồng Khe thành thì là đan quân từ Long Uyên chuyển đến… họ chính là những chiến bộ thuộc Long Uyên trước đây đã từng tụ tàn sát nhau vì mưu kế ly gián của Nguyên Quốc nay lại trở thành đồng đội cùng màu áo.

Thủy binh Đại Việt giờ đây có 64 chiến thuyền với biên chế 6400 lính chính quy nhưng trong này có tới phân nửa với 3 ngàn người là nô lệ Thục Ngụy đầu nhập Đại Việt trở thành con dân Đại Việt. Hơn một ngàn những lão binh thủy quân thuộc các trung đoàn như Lục Hải và Cự Kình là những người gốc Việt thuộc dân chúng Sông Cẩm và Sông Kinh Thầy. Còn lại là những binh sĩ mới chiêu mộ tại Cổ Loa, Luy Lâu nhưng họ sẽ được đào tạo bài bản nhất để trở thành thủy quân tinh nhuệ. Tính ra Đại Việt có tới 5 vạn dân thường và 2,5 vạn quân lính. Nhưng chế độ quân điền tại một số nơi đã làm cho sản xuất không bị đình đốn và ngưng trệ. Có lẽ đây là mô hình tốt nhất dành cho thời chiến vào khoảng thời gian này….

Thủ Đô của Đại Việt vậy mà bất ngờ Nguyên Quốc đặt tại Bắc Đái thành… và hắn cải tên thành Bắc Đô. Thật ra chọn nơi nào làm thủ Đô đều phải dựa vào tình thế thực tế mà quyết định. Bắc Đái lúc này đúng là Trung tâm vùng đất mà Đại Việt nắm được. Nếu theo Sông Đuống thì không tới một ngày có thể đến được Cổ Loa, Luy Lâu… từ đây xuôi dòng sông Bạch Đằng có thể đi ra cửa biển Nam Triệu mà dong thuyền đến Đồng muối hay Khúc Dương… Cũng từ nơi đây có thể ngược dòng sông Lục Nam đi về Hữu Lũng, Long Uyên… Bắc Đái lúc này chính là Trung tâm nhất của Đại Việt. Nơi đây và Kê từ Nguyên Quốc quyết định cho dân định cư đến 15 ngàn người xung quanh lưu vực các con sông của Vạn Kiếp… Vì nơi đây rất thuận tiện chạy nạn đi Hữu Lũng nên Nguyên Quốc không ngại để cho dân chúng được sinh hoạt nơi này… đến cả thủ Đô của Đại Việt cũng không có một chút dân nào thì quả thật khá khó coi rồi.