Chương 121: Văn hóa chiến chưa bào giờ dừng
Con Sông Hoàng Giang Rộng lớn chảy qua phía Nam của thành Cổ Loa và cũng chỉ cách tòa thành này tầm 2 km mà thôi. Việc này quá thuận tiện cho việc giao thông của tòa Kinh đô của người Việt cổ. Khi thủy quân Giao Long của Đại Việt tiếp nhập tòa thành thì họ phát hiện quân Đông Ngô đang lục đục đổ bộ lên bờ từ bến cảng cạnh Thành Cổ Loa. Vì bến cảng này là cảng thương nghiệp nên rất nhỏ bé vậy nên có hai thuyền chiến của Đông Ngô không thể cập cảng thì họ quyết định lao thẳng vào bãi cạn để lên bờ. Quân Đại Việt dí rất sát chỉ cách họ tầm 6, 7 km mà thôi. Ngay cả thời gian vận chuyển các đồ vật quan trọng trên chiến thuyền thì Lã Khải cũng không thể làm được. Họ chỉ biết cắm đầu lên bờ và chạy về hướng thành Nội của Cổ Loa. May mắn nơi đây vẫn còn tới 500 quân Bách Việt đang trú đóng, vậy là tổng số binh lực của Đông Ngô vào khoảng 1300 người, Lã Khải hi vọng với số người này thì đủ cầm cự đến khi quân Lã Đại phụ thân hắn quay về kịp thời.
Quân Đại Việt ập đến nơi ngay khi người cuối cùng của lính Đông Ngô rút khỏi thuyền. Trước khi rút Lã Khải có ra lệnh đốt thuyền không cho quân Đại Việt chiếm được, thế nhưng quân Đại Việt đuổi quá gần khiến cho mấy tên được giao nhiệm vụ chỉ làm qua loa là ném mấy bó đuốc vào cánh buồm rồi chạy biến. Dầu trẩu thì quân Đông Ngô đã dùng hết trong cuộc chiến tranh tại Cửu Chân rồi, nếu không có dầu thì việc đốt một chiến thuyền không phải là chuyện dễ dàng cho cam gì. Buồm là nơi dễ bắt hỏa nhất của chiến thuyền nhưng nó cũng cần thời gian mới có thể cháy được. Quân Đại Việt úp sọt kịp thời và tiến hành cứu hỏa ngay lập tức.... Họ không những thu được thêm bảy chiến thuyền nguyên vẹn mà còn có thêm gần 600 tay chèo chuyên nghiệp cùng lương thực hàng hóa, khí giới trên thuyền. Việc hai đoàn thuyền truy đuổi nhau trên sông Hoàng Giang đã gây nên sự chú ý tuyệt đối của các người dân sống tại các làng mạc ven hai bờ sông. Đến khi họ nhìn thấy đoàn thuyền chiến thắng có mang cờ Đại Việt thì tất cả như vỡ òa vì sung sướng, có rất nhiều dân chúng dọc theo hai bên sông ào ào đổ về bến tàu để được chứng kiến " đội quân anh hùng của họ". Mà nhiều hơn là các thuyền nhỏ của dân chài lưới ven sông cũng nô nức mà khởi hành "bám đuôi" thủy quân Đại Việt.
Đến khi quân Đại Việt tiếp quản bến tàu và lần lượt đổ bộ thì Hà Tùng quá dễ dàng khi biết được thông tin toàn bộ bố trí của quân Đông Ngô bên trong thành Cổ Loa. Thì ra lúc này người Hán mới nhận ra họ thân cô thế cô giữa một rừng người Việt, trước đây họ không cảm nhận thấy điều này khi hùng hùng hổ hổ vác 4 vạn người qua đánh chiếm Giao Châu. Người Hán Đông Ngô dễ dàng chiến được Giao Chỉ tại miền Bắc Giao Châu nên họ quên rằng nơi này với họ chính là đất khách quê người. Sở dĩ những người Việt còn lại tại phương Bắc không dám phản kháng số lượng 1 vạn quân Đông Ngô ít ỏi ở lại Giao chỉ vì họ không có người lãnh đạo nhất quán, không có vũ khí trang bị, và quan trọng hơn đa phần họ đều thuộc bộ sản xuất mà không phải bộ chiến. Bộ chiến thì đa phần đều theo Sĩ Huy tiến về Cửu Chân dằng co với Lã Đại rồi.
Người dân Việt ở lại Giao Chỉ lúc này chỉ biết cúi đầu chịu sự đàn áp của 1vạn lính Đông Ngô trong khi số lượng của họ lên tới 30 vạn người tất cả... Tuy nói trong đó có phụ nữ, trẻ nhỏ người già. Nhưng ít nhất trong 30 vạn này cũng phải có đến 4-6 vạn người có thể chiến đấu đấy, nhưng chế độ hà khắc của Sĩ Nhiếp mang lại đã có hiệu quả cực lớn, nói một cách đơn giản đó là một bộ phận người dân Việt cổ đã sống quen với cản bóc lột rồi thế nên đổi đối tượng bóc lột thì họ cũng không có phản kháng quá nhiều trừ khi sự bóc lột mới quá tàn bạo.
Nhưng đúng là sự bóc lột mới của lính Đông Ngô có phần tàn bạo và mang tính triệt để hơn Sĩ Nhiếp rất nhiều. Nói cho cũng sĩ Nhiếp là một quan văn, cách cai trị và bóc lột của hắn mang tính hệ thống và bền vững cũng như mang tính nguy hiểm cao. Vì cách bóc lột này đi kèm với sự phá hủy nền tư tưởng độc lập của người Việt cổ. Nên nhớ dưới sự cai trị bóc lột tàn nhẫn không kém gì các đời thổ quan trước đó của mình nhưng Sĩ Nhiếp rất được dân Việt ủng hộ, ví dụ đơn giản nhất đó là Sĩ Huy có thể hiệu triệu hàng vạn người Việt chiến đấu cho hắn. Sự bóc lột của Sĩ Nhiếp tại sao lại thành công đến như vậy.... đó là bởi vì tên này kết hợp giữa xâm lược văn hóa một cách từ từ và bóc lột, hắn rất ít khi dùng đến quân đội đang áp. Mà nếu bắt buộc phải dùng đến quân đội thì hắn sẽ gây chia rẽ giữa các bộ lạc rồi để các từ trưởng thanh trừng lẫn nhau để loại bỏ những kẻ có ý kiến trái chiều với mình. Đồng thời Sĩ nhiếp còn chịu bỏ thời gian để đào tạo ra một thế hệ quý tộc mới của Đại Việt với cái mĩ danh là mở trường dạy học khai hóa man di. Thật ra nếu để dạy nhau thì có lẽ người Việt lúc này cũng có thể làm thày người Hán... thật không biết Sĩ Nhiếp lấy cái gì để khai hóa. Nhưng chính sự kiên trì không mệt mỏi của Sĩ Nhiếp đã khiến cho hắn phần nào thành công với việc đào tạo ra một nhóm tù trưởng nghe theo lời hắn mà tiến hành bóc lột chính đồng bào của họ rồi cung phụng cho Sĩ Nhiếp... tất nhiên những tù trưởng này giữ lại một phần để mình hưởng dụng áp dụng theo cơ chế Kim Tự Tháp vậy. Nhưng cũng may mới chỉ có gần 60 năm cai trị của Sĩ Nhiếp nên sức ảnh hưởng của hắn tới các tù trưởng và bộ lạc Việt tộc không quá vươn xa vào phía Nam vậy nên trong lịch sử Bắc thuộc lần I thì số lượng các cuộc khởi nghĩa nhỏ lẻ tại Cửu Chân, Nhật Nam là nhiều hơn cả.
Nếu bạn tưởng tượng người Hán là độc dược đối với người Việt thì Sĩ Nhiếp là độc mãn tính, âm thầm yên lặng và rất kiên trì từ từ mai mòn đấu trí của người Việt. Mà với chất độc mãn tính thì nó nguy hiểm ở chỗ người Việt sẽ yếu đi một cách từ từ mà họ không cảm giác được để tìm cách phản kháng hay tìm "thuốc" để chữa trị. Cho đến khi người Việt cổ muốn phản kháng thì họ sẽ bệnh quá nặng mà không còn sức lực nữa rồi. Có thể nói phương pháp xâm lược về mặt tư tưởng, văn hóa của Sĩ Nhiếp mới quả thật là nguy hiểm nhất đối với người Việt lúc này. Nhưng bản chất của Lã Đại Đông Ngô lại khác hoàn toàn, xuất thân của Lã Đại là quan võ sau này hắn còn được thăng lên đến Đại tư mã trong lịch sử. Mà sự bóc lột, trà đạp thống trị của võ quan bao giờ cũng thiếu hàm lượng chất xám và mang tính chất máu tanh với nghĩa đen. Đi đến đâu là cướp, là giết là hãm hiếp đến đó… nhưng nếu nói về mặt tích cực thì có lẽ Việt tộc lại phải cảm ơn tên này vì nó như một liều độc dược Cấp tính mang lại cơn đau khôn cùng cho người Việt, và chính nó lại là tiền đề cho sự phản kháng của người Việt ngày nay… Một ví dụ dễ minh họa là nếu người Hán mang quân qua đánh chiếm Việt Nam như những năm 1979 thì nó giống như minh họa của Lã Đại lúc này. Một cuộc chiến tranh kiểu đó sẽ đánh thức hoàn toàn ý trí dân tộc của người Việt, kể cả những kẻ có xu hướng lung lay thân Hán cũng không thể nào trường mặt ra mà nói tốt cho Hán tộc được cả. Khi ấy Việt tộc lại là một khối đại đoàn kết mà tiến lên đấm tan cái mõm máu me tham lam khát máu của giặc Bắc. Nhưng những cuộc xâm lược bằng những tác phẩm điện ảnh, tiểu thuyết v. v…. nhằm truyền bá tư tưởng Đại Trung Hoa thì lại nguy hại hơn nhiều… không dám nói nó sẽ ảnh hưởng đến tất cả nhưng nó sẽ có ảnh hưởng sai lệch cho một số lượng bạn trẻ nhất định của người Việt. Nói một cách nôm na là thuộc sử Tàu hơn sử Việt và đôi lúc hành sử theo lối mà những câu truyện, những bộ phim người Hán truyền tai thông điệp của họ vào đó. Chính vì vậy phương diện chiến tranh văn hóa chưa bao giờ chấm dứt và có lẽ thời hiện đại chúng ta hơi lép vế…